Đây là câu chuyện về một chàng trai kì lạ.
Một người giống như áng mây lững lờ trôi theo gió trên trời đêm hư vô.
Khoảnh khắc trước và sau của áng mây phiêu lãng giữa đêm tưởng chừng không có gì sai khác, nhưng nếu để ý thật kĩ ta sẽ nhận ra nó đã thay đổi tự lúc nào. Vẫn là áng mây kia, song ta lại chẳng thể nắm bắt hình dạng của nó.
Đây là câu chuyện về một chàng trai như vậy.
Chàng tên Abe no Seimei, là một âm dương sư.
Seimei sinh năm Diên Hỉ thứ hai mươi mốt, dưới thời thiên hoàng Daigo thì phải. Nhưng năm sinh và năm mất của nhân vật không liên quan trực tiếp đến câu chuyện. Biết đâu điều thú vị lại nằm ở sự mập mờ của những con số.
Cứ vậy đi.
Thôi thì viết đến đâu hay đến đấy, có khi như thế lại hợp với nhân vật hơn.
Thời đại Heian.
Thời đại chìm đắm trong mông muội, nhiều người vẫn tin vào sự hiện hữu của những thứ quái đản. Đó là giai đoạn yêu ma lặng lẽ tồn tại cùng con người trong màn đêm chốn kinh kì, thậm chí ở chung dưới một mái nhà chứ chẳng phải nơi nào xa xôi như thâm sơn cùng cốc.
Âm dương sư, nói dễ hiểu là thầy bói, cũng được gọi là pháp sư hoặc thầy cúng. Nhưng thật ra chẳng có danh xưng nào hoàn toàn chính xác.
Âm dương sư thông thạo chiêm tinh, xem tướng, coi phong thủy, bói toán, còn có thể dùng bùa chú sát nhân và biết sử dụng pháp thuật. Họ am tường những lĩnh vực siêu nhiên như vận mệnh, linh hồn hay ma quỷ và sở hữu khả năng khống chế yêu quái.
Âm dương sư còn là một chức quan phục vụ trong triều đình, ở đại nội có xây một Âm dương đạo quán. Bản thân Seimei trong triều cũng được ban tòng tứ phẩm hạ.
Nhất phẩm là thái chính đại thần.
Nhị phẩm là tả đại thần và hữu đại thần.
Tam phẩm là đại nạp ngôn và trung nạp ngôn.
Vì tính chất công việc, Seimei cũng có ảnh hưởng nhất định trong triều.
Trong cuốn Kim tích vật ngữ tập còn ghi chép lại nhiều chuyện ly kì về nhân vật Abe no Seimei.
Thuở nhỏ, chàng theo âm dương sư Kamo no Tadayuki học đạo, và cũng từ lúc ấy Seimei đã bộc lộ một số khả năng đặc biệt chỉ âm dương sư mới làm được. Thậm chí có thể coi đó là một loại tài năng thiên phú.
Kim tích vật ngữ tập kể rằng, thời Seimei còn niên thiếu, có một đêm sư phụ Tadayuki phải đi xuống phía Nam kinh thành.
Ông rời đại nội qua cổng Chu Tước, rồi đi dọc đại lộ Chu Tước đến cổng La Thành. Quãng đường từ trung tâm đại nội ra đến cổng La Thành là hơn tám dặm.
Ông ngồi xe. Chắc là xe bò, dù trong sách không ghi chép. Sách cũng không chép lý do khiến ông lặn lội đêm hôm, nhưng giả thuyết hợp lý nhất là ông đến thăm hồng nhan tri kỉ.
Trong đoàn tùy tùng có Seimei.
Tadayuki ngồi một mình trong xe, hầu cận thì đi bộ. Người theo hầu, tính cả Seimei, chỉ chừng vài ba người. Một người dắt bò dẫn đường, một người cầm đèn lồng, còn lại chính là thiếu niên Seimei. Không thấy sách chép Seimei bao tuổi, nhưng như tôi suy đoán, lúc ấy chàng độ lên mười.
Trong khi hai người kia đều mặc bộ đồ hai mảnh tươm tất thì Seimei chỉ mặc bộ áo tay hẹp đã rung rúc, đi chân trần. Phỏng chừng y phục trên người chàng là đồ cũ của ai đó. Cũng không có chuyện nhờ chàng thông minh sáng láng nên dù mặc đồ cũ vẫn ngời ngời tinh hoa hay gì. Trông bề ngoài, Seimei bình thường đúng như lũ trẻ đồng trang lứa mà thôi.
Thiếu niên này, dường như chỉ trong một số trường hợp nhất định mới bộc lộ cách hành xử và lời nói chín chắn như người trưởng thành.
Có thể đôi khi sư phụ Tadayuki nhận thấy khí chất khác người ánh lên nơi đáy mắt Seimei. Nhưng cũng chỉ vậy, không hơn.
Vì phải đến sự kiện xảy ra đêm đó, ông mới phát hiện được khả năng tiềm ẩn của chàng.
Trở lại chuyện chính.
Cỗ xe bò ra tới ngoại thành. Trong xe, Tadayuki say ngủ.
Seimei theo hầu bên ngoài, bất chợt nhìn trân trân ra trước. Có những bóng dáng lạ kì. Một bầy quỷ đáng sợ từ đằng xa đang tiến đến gần họ.
Dường như những người hầu khác không hề trông thấy chúng. Seimei tức tốc mở cửa sổ, “Đại nhân!”
Seimei đánh thức Tadayuki, nhanh chóng bẩm báo cảnh mình vừa trông thấy. Tadayuki tỉnh giấc ló đầu ra xem. Quả thật có một bầy quỷ đang tiến đến.
“Dừng lại!” Ông hạ lệnh cho người hầu. “Mau núp vào bóng xe, nín thở bất động! Tuyệt đối không được gây ra bất cứ âm thanh nào!” Đoạn ông làm phép để che mắt bầy quỷ, không cho chúng nhìn thấy cỗ xe và đám người, chờ chúng đi qua.
Sau lần đó, Tadayuki thường mang theo Seimei bên mình. Ông còn truyền dạy cho chàng mọi kiến thức mình có về đạo Âm dương.
Kim tích vật ngữ tập miêu tả quan hệ của họ “tựa như rót nước từ bình”. Ngụ ý Kamo no Tadayuki là cái bình, nước chứa trong đó là thuật Âm dương, tất thảy đều được rót nguyên vẹn sang cái bình của Seimei.
Sau khi Tadayuki qua đời, Seimei xây một dinh thự ở vị trí Nam giáp đại lộ Thổ Ngự Môn, Tây giáp đại lộ Tây Động Viện. Nếu nhìn từ điện Tử Thần ở trung tâm cấm cung thì dinh thự của chàng nằm phía Đông Bắc. Tóm lại là nằm ở hướng Cấn. Mà hướng Cấn còn có nghĩa là hướng Quỷ Môn.
Chùa Diên Lịch trên núi Hiei nằm ở phía Đông Bắc kinh thành Heian. Dinh thự của Abe no Seimei lại nằm ở phía Đông Bắc cấm cung. Đây không phải là trùng hợp ngẫu nhiên. Cũng như mọi kết cấu khác của kinh thành, cấu tạo hai lớp này nhằm bảo vệ thiên hoàng Kanmu khỏi hồn ma của thân vương Sawara, tức phế thái tử trong vụ ám sát Fujiwara no Tanetsugu. Cũng chính vì vậy mà mười năm trước, thiên hoàng đã dời đô khỏi Nagaoka và bắt đầu xây dựng thành Heian.
Nhưng sự kiện đó xảy ra trước khi Seimei chào đời, và không liên quan lắm đến câu chuyện này.
Nào, giờ thì quay lại với Kim tích vật ngữ tập.
Ngày nọ, có lão hòa thượng dẫn theo hai thư đồng chừng mười mấy tuổi tìm đến dinh thự nằm ở hướng Quỷ Môn của Seimei.
“Hòa thượng đến đây có việc gì?” Seimei hỏi.
“Bần tăng là người xứ Harima.” Lão hòa thượng đáp.
Tên lão là Chitoku. Sau khi xưng danh, lão hòa thượng bắt đầu kể.
Từ lâu lão đã muốn theo học đạo Âm dương. Nghe thiên hạ đồn rằng trong số tất cả các âm dương sư, đại nhân đây chính là người giỏi nhất. Đại nhân có thể chỉ dạy đạo pháp Âm dương cho lão không, một chút thôi cũng được.
Lão hòa thượng tên Chitoku đại khái đã bày tỏ với Seimei như vậy.
Ha ha. Nghe lão hòa thượng nói xong, Seimei thầm nghĩ, “Hòa thượng này mới thật là kẻ tinh thông pháp thuật. Lão đến để thử ta đây mà.”
Seimei đoán đúng. Hòa thượng này quả thật tinh thông thuật Âm dương, đến đây với mục đích thử thách chàng. Nói không chừng, hai thư đồng lão dẫn theo chính là thức thần (Shikijin) cũng nên.
Hừ. Seimei cười thầm.
Chữ “thức” trong “thức thần” có thể hiểu là “cách thức” hoặc “nhận thức”. Thức thần cũng được gọi là Shikishin hay Shikigami. Hiện nay, một trong những môn phái Âm dương còn sót lại là Izanagi ở đảo Shikoku còn gọi chúng bằng cái tên Thức vương tử.
Thức thần là những tinh linh mắt thường không nhìn thấy được. Chúng không thuộc hàng tinh linh cao cấp mà chỉ là thứ tạp nham. Âm dương sư sử dụng pháp thuật biến những tạp linh này thành thức thần để sai bảo. Tùy vào năng lực của âm dương sư mà chúng được phân thành cấp cao hay cấp thấp.
“Ra thế.” Seimei gật gù. “Cũng thuộc hạng cao tay đấy,” chàng âm thầm cảm thán.
Bởi vì hai thức thần đi theo hòa thượng Chitoku này không phải dạng tinh linh có thể thao túng bằng mấy tài nghệ nửa vời.
“Tôi hiểu rồi. Chỉ tiếc là, hôm nay tôi lại bận chút việc không dứt ra được…”
Seimei khuyên lão hòa thượng hãy tạm quay trở về, chọn ngày lành tháng tốt hẵng đến đây lần nữa. Vừa nói chàng vừa thu hai tay vào trong ống tay áo, bí mật kết ấn và thầm niệm chú.
“Vậy lão xin đợi ngày lành tháng tốt lần sau.”
Lão hòa thượng chắp tay lên trán chào, rồi ra về.
Thế nhưng Seimei không hề động đậy. Chàng khoanh tay đứng yên đấy, ngước mắt nhìn trời. Một lúc sau, lão hòa thượng đáng lẽ đã đi được một, hai khu phố rồi, lại vẫn lảng vảng trước cánh cổng để ngỏ. Vừa đi lão vừa ngó nghiêng những nơi dễ ẩn nấp, rồi cả chỗ đỗ xe.
Cuối cùng lão hòa thượng đến trước mặt Seimei lần nữa.
“Chuyện là ban nãy lão đến đây cùng hai đứa thư đồng, nhưng đột nhiên chẳng thấy chúng đâu. Đại nhân có thể trả chúng lại cho lão được không?” Lão ta nói.
“Trả lại?” Seimei giả ngây. “Tôi có làm gì đâu. Rõ ràng lúc nãy hai ta cùng đứng đây. Khi ông rời đi tôi vẫn ở yên một chỗ, làm sao mang giấu hai tên thư đồng của ông được chứ?”
Nghe vậy, lão hòa thượng liền cúi đầu trước Seimei.
“Xin đại nhân thứ lỗi. Thật ra chúng chẳng phải thư đồng mà là thức thần do lão điều khiển. Hôm nay lão đến đây vốn định thử tài đại nhân. Quả là không biết lượng sức mình. Xin đại nhân rộng lòng tha cho!” Lão luống cuống giải thích.
“Ông muốn thử, tôi cũng chẳng ngại. Có điều, đừng hòng dùng những thứ vớ vẩn như thế để qua mặt tôi.”
Ngữ điệu của Seimei lập tức thay đổi, chàng bật cười đắc ý. Nụ cười không lỗ mãng nhưng chẳng hề khách khí nở trên môi. Chàng lẩm nhẩm niệm chú.
Đột nhiên, hai thư đồng ban nãy từ ngoài cửa chạy vào, trên tay là rượu và đồ nhắm.
“Tôi vừa nhờ chúng đi mua chút đồ. Ông khiến tôi rất vui, vì thế hãy mang những món này về đi!”
Phải chi Seimei trêu chọc thêm vài câu hẳn sẽ còn thú vị nữa. Tuy nhiên việc ấy Kim tích vật ngữ tập không ghi lại, chỉ viết đến đoạn hai đứa thư đồng chạy vào thôi.
Lão hòa thượng cảm phục sâu sắc, “Từ xưa đến nay, điều khiển thức thần chẳng phải việc khó. Nhưng đem thức thần của kẻ khác giấu đi, tuyệt nhiên không phải việc mà một âm dương sư bình thường làm được.”
Lão kích động đến độ mặt đỏ bừng bừng, cương quyết muốn bái Seimei làm thầy, bèn viết tên mình ra giấy rồi trao cho chàng. Trong giới thuật sĩ dân gian, tự tay viết tên mình trao cho kẻ khác là chuyện hiếm gặp. Hành động này không khác nào đặt tính mệnh bản thân vào tay đối phương.
Kim tích vật ngữ tập còn chép lại một giai thoại thế này. Lần khác, Abe no Seimei đến chơi nhà tăng chính Kancho ở Hirosawa. Các công tử quý tộc và tăng lữ liền xúm lại chuyện trò với chàng. Họ đều đã nghe vô số lời đồn thổi về Seimei nên nội dung cuộc nói chuyện tự nhiên cũng xoay quanh lĩnh vực pháp thuật.
“Ta nghe nói ông điều khiển được thức thần. Chẳng hay ông có thể dùng nó để giết người không?” Một kẻ cả gan hỏi.
Seimei liếc nhìn gã công tử này, ánh mắt như muốn cảnh cáo, “Ngươi dám tùy tiện chất vấn bí mật nghề nghiệp của ta?”
Thấy gã lộ vẻ sợ hãi, chàng thoáng chốc vui vẻ.
“Không, giết người nào có đơn giản!” Seimei cho gã một nụ cười trấn an. “Cơ mà phương pháp cũng chẳng phải ít…” Dường như chàng đã nói thêm câu ấy.
“Thế giết mấy con côn trùng nhỏ hẳn là không khó?” Một tên quý tộc khác lại hỏi.
“Ừ thì, chắc vậy!” Seimei vừa đáp, lập tức có năm sáu con ếch loi choi nhảy ra khoảng sân trước mặt họ.
“Ông có giết được một con trong số chúng không?” Gã này tiếp tục.
“Được thì được thôi, nhưng chuyện giết chóc thì…”
“Thì làm sao?”
“Giết chết không khó, nhưng hồi sinh lại là điều không thể. Sát sinh vô ích chỉ tổ chuốc lấy tội nghiệt.”
“Một con thôi mà…”
“Ta muốn xem ông giết nó thế nào!”
“Ta cũng muốn xem!”
“Cả ta nữa!”
Đám quý tộc và tăng lữ túm tụm lại. Vốn được nghe nhiều tin đồn về pháp thuật của Seimei nhưng chưa có dịp nhìn thấy tận mắt, ai nấy đều lộ vẻ hiếu kì.
Đến nước này mà còn vòng vo không xuất thủ, e rằng về sau sẽ bị bọn họ đàm tiếu “Tên này cũng chỉ hữu danh vô thực thôi”. Seimei đành nheo mắt nhìn bọn họ, “Các ông ép tôi gây nghiệp rồi.”
Chàng lẩm nhẩm và vươn tay phải ra, dùng những ngón tay trắng trẻo nhón lấy một chiếc lá liễu xanh non đương rủ dưới mái hiên. Đoạn, chàng tung chiếc lá lên không trung, miệng niệm chú. Chiếc lá chao liệng rồi nhẹ nhàng đáp xuống mình một con ếch. Tức thì con vật xấu số bị nghiền nát như tương, chết ngay tại chỗ. Máu thịt cùng nội tạng văng tung tóe.
Kim tích vật ngữ tập chép, “Đám tăng lữ trông thấy cảnh ấy, thảy đều kinh hồn táng đởm”.
Vị Seimei này, lúc ở nhà không có ai còn điều khiển thức thần nữa. Tỉ như, rõ ràng chẳng thấy bóng người nhưng liếp cửa lại nâng lên hạ xuống, hay dù không có ai gác, cánh cổng vẫn tự mở ra đóng vào… Những chuyện kì lạ như vậy luôn xảy ra quanh Seimei.
Lật lại một số tư liệu khác về nhân vật này sẽ thấy, thỉnh thoảng chàng lại dùng pháp thuật dọa người. Như câu chuyện lão hòa thượng Chitoku và con ếch ở trên.
Rõ ràng Seimei rất thích chòng ghẹo kẻ khác. Ngoài mặt thì nghiêm trang là thế, nhưng nội tâm vẫn tiềm ẩn chút tính khí trẻ con.
Từ đoạn này trở đi trong sách xưa không nhắc tới, chỉ là tưởng tượng riêng của tác giả.
Tuy rằng phục vụ trong cung đình, nhưng nhân vật Abe no Seimei vẫn có rất nhiều điểm gần gũi với bá tánh bình dân, và đặc biệt nắm rõ sự vật sự việc ngoài đời.
Chàng là một mỹ nam vóc người cao ráo, da dẻ trắng trẻo, đáy mắt tĩnh lặng như mặt nước hồ thu. Mỗi lần chàng bận bộ y phục tao nhã bước đi trong cung, không ít nữ nhân phải dõi theo và chụm đầu bàn tán. Ắt hẳn chàng từng nhận được đôi ba cánh thư viết thơ ca tình tứ của những tiểu thư khuê các.
Nhờ khôn khéo, Seimei đối nhân xử thế hầu như không hề sơ suất. Nhưng hình như cũng có lần vô ý lỗ mãng, tỉ như lỡ miệng xấc xược gọi “Này” với thiên hoàng.
Chàng luôn giữ trên môi nụ cười trang nhã, nhưng đôi lúc cũng thoáng nét cười bỡn cợt lưu manh.
Do tính chất công việc, âm dương sư phải am tường những mặt trái của con người, song song đó vẫn cần có học vấn và hiểu biết lễ nghi, phép tắc trong cung. Seimei chẳng những tinh thông thơ Hán, ngâm vịnh thơ ca, mà còn thành thạo một hai loại nhạc cụ như sáo hay tỳ bà.
Đối với tôi, Heian là thời đại tăm tối nhưng vẫn trang nhã phong lưu.
Bây giờ tôi sẽ kể cho các bạn nghe giai thoại về chàng trai như áng mây bồng bềnh trong gió, phiêu dạt giữa đêm đen thanh nhã mà âm u ấy.
Vào một ngày đầu tháng Thủy vô nguyệt, triều thần Minamoto no Hiromasa ghé thăm nhà Abe no Seimei.
Thủy vô nguyệt tức tháng Sáu âm lịch. Tính theo dương lịch hiện nay là khoảng vừa qua ngày 10 tháng Bảy một chút. Mùa mưa còn chưa kết thúc.
Hôm ấy là một ngày tạnh ráo hiếm hoi sau những ngày mưa dầm dề không ngớt. Gọi là tạnh ráo nhưng cũng không hửng nắng, vòm trời như phủ trong lớp màn trắng mỏng.
Lúc này đương là buổi sớm tinh mơ. Từng tán cây ngọn cỏ ướt đẫm sương, không khí lạnh đến run người.
Minamoto no Hiromasa vừa đi vừa ngắm bức tường bao quanh nhà Seimei. Tường xây theo kiến trúc thời Đường, khoảng từ tầm ngực đổ lên chạm trổ hoa văn. Đầu tường lợp ngói sóng, dễ làm người ta liên tưởng tới chùa chiền.
Hiromasa mặc áo tay dơi, đi ủng da hươu. Trong không khí lất phất những hạt mưa bụi còn mỏng manh hơn sương sớm. Chúng ngấm vào lớp vải áo tay dơi, làm nặng trang phục của vị khách đang dạo bước.
Triều thần Minamoto no Hiromasa là một võ quan, hông đeo trường kiếm, trông tuổi thì ba lăm đã qua bốn mươi chưa tới. Cách đi đứng và tác phong xem chừng võ biền cục mịch, nhưng tướng mạo lại khá ôn hòa. Lúc này sắc mặt y không tốt lắm, thậm chí hơi ủ dột. Xem ra trong lòng đang có điều phiền muộn.
Hiromasa đứng trước cánh cổng rộng mở. Từ ngoài nhìn vào có thể thấy hết khoảnh sân bên trong. Khắp sân là cỏ dại ướt đẫm, vươn mình xanh tốt sau trận mưa đêm qua.
Trông như chùa hoang ấy! Suy nghĩ thoáng qua gương mặt Hiromasa. Tuy chưa đến mức hoang phế, nhưng sân vườn có vẻ không được ai coi sóc.
Đúng lúc ấy, mùi hoa ngọt ngào thoảng qua mũi Hiromasa. Y liền phát hiện ra. Trong bãi cỏ, thấp thoáng có chùm hoa nở rộ trên cây tử đằng lâu năm.
“Cậu ta thực sự trở về rồi á?” Hiromasa lẩm bẩm.
Vẫn biết Seimei là người thích cây cỏ sinh trưởng tự nhiên, nhưng để mặc đến mức này thì hơi quá.
Đang thở dài, Hiromasa chợt thấy bóng một cô gái xuất hiện ở phía nhà chính. Là nữ mà lại mặc áo săn và quần dây. Nàng tiến đến trước mặt Hiromasa, khẽ cúi mình và nói, “Tiểu nữ chờ ông đã lâu.”
Đó là một cô gái tuổi vừa đôi mươi, khuôn mặt thanh tú xinh đẹp.
“Chờ ta?”
“Chủ nhân bảo rằng chẳng bao lâu nữa Hiromasa đại nhân sẽ quá bộ đến đây nên căn dặn tiểu nữ ra đón tiếp.”
Hiromasa theo sau cô gái, lòng không khỏi thắc mắc vì sao Seimei lại biết.
Cô gái dẫn khách vào nhà. Sàn gỗ trải chiếu cói, Seimei đang ngồi khoanh chân, chăm chú nhìn Hiromasa.
“Anh tới rồi à…” Seimei cất tiếng.
“Cậu biết thừa rồi còn gì.” Hiromasa nói rồi ngồi xuống cùng chiếc chiếu Seimei đang ngồi.
“Kẻ tôi phái đi mua rượu báo rằng anh đang trên đường đến đây.”
“Rượu?”
“Tôi đi xa một thời gian nên thèm rượu kinh thành ấy mà. Còn anh, sao biết tôi về?”
“Có người bảo tôi là đêm qua trông thấy ánh đèn trong dinh thự Seimei.”
“Ra thế.”
“Cậu đi đâu suốt gần tháng qua vậy?”
“Đến núi Koya.”
“Koya?”
“Ừm.”
“Sao tự nhiên lại…”
“Tôi có điều chưa hiểu.”
“Điều chưa hiểu?”
“Nói đúng hơn, tôi chợt nghĩ tới một chuyện nên đi đàm đạo với đại sư ở núi Koya.”
“Chuyện gì cơ?” Hiromasa hỏi.
“Nhưng…” Seimei vò đầu, nhìn Hiromasa.
Tuổi hai người không chênh lệch là bao, nhưng nhìn bề ngoài thì Seimei trẻ hơn. Không chỉ trẻ mà tướng mạo cũng hài hòa, cân đối. Sống mũi thẳng, môi hồng như thoa son mỏng.
“Nhưng cái gì?”
“Anh là hảo hán nên chắc không mấy hứng thú với đề tài này đâu.”
“Đề tài gì?”
“Chú thuật.” Seimei đáp.
“Chú thuật!?”
“Đàm đạo về một số việc liên quan đến chú thuật.”
“Cụ thể?”
“Đại loại như chú thuật là gì chẳng hạn.”
“Chú thuật không phải là lời nguyền à…”
“Là lời nguyền. Nhưng khi nghiền ngẫm chú thuật là gì, tôi chợt nghĩ ra một đáp án.”
“Nghĩ ra cái gì?” Hiromasa gặng hỏi.
“Ừ thì, giả dụ chú thuật liệu có phải là tên gọi không.”
“Tên gọi?”
“Ối dào, gượm đã Hiromasa. Lâu rồi không gặp, chúng ta uống với nhau một chén đã nào.” Seimei cười nói.
“Tôi tới đây không phải để uống rượu, nhưng cậu đã mời thì tôi cũng chẳng khách khí đâu.”
“Được, dâng rượu.” Seimei vỗ tay đánh bộp.
Lập tức ngoài hành lang vọng vào tiếng y phục quệt sàn, một cô gái tay cầm khay xuất hiện. Trên khay bày sẵn bình và chén rượu.
Thoạt tiên nàng đặt khay xuống trước mặt Hiromasa, rồi lui ra, sau đó mang vào một khay nữa đặt trước mặt Seimei. Đoạn, nàng rót rượu vào chén cho Hiromasa.
Hiromasa nâng chén để cô gái châm rượu, ánh mắt không rời khuôn mặt nàng. Cũng mặc áo săn và quần dây nhưng không phải người ban nãy. Tuổi cũng chừng đôi mươi, môi căng mọng, cổ trắng muốt, cả con người toát ra một vẻ quyến rũ.
“Sao thế?” Seimei hỏi Hiromasa đang say sưa ngắm nhìn cô gái.
“Không phải người ban nãy.”
Nghe Hiromasa nói, cô gái mỉm cười gật đầu với y. Kế tiếp nàng quay sang rót rượu vào chén Seimei.
“Là người à?” Hiromasa hỏi, muốn biết cô gái là thức thần do Seimei điều khiển hay cái gì khác.
“Thử không?” Seimei lên tiếng.
“Thử?”
“Tối nay anh đem về dinh đi…”
“Đừng có đùa kiểu ấy, vớ vẩn!” Hiromasa gạt phăng.
“Vậy thôi.”
“Ờ.”
Hai người ngửa cổ uống cạn chén rượu. Cô gái tiếp tục châm rượu vào chén.
Hiromasa nhìn nàng, miệng lẩm bẩm, “Đến bao lần mà vẫn không biết.” Rồi y thở dài thườn thượt.
“Biết gì cơ?”
“Tôi đang nghĩ rốt cuộc nhà cậu có mấy kẻ là người thật. Đến lần nào là thấy gương mặt mới lần ấy.”
“Chà, thôi bỏ đi.” Seimei trả lời rồi vươn đũa tới đĩa cá nướng.
“Cá hương à?”
“Sáng nay có người mang đến bán. Cá hương ở sông Kamogawa đấy.”
Con cá to, nảy nở. Seimei cầm đũa xắn một miếng cá phồng căng. Từ chỗ vừa xắn, hơi nóng bốc lên nghi ngút.
Cửa hiên mở nên có thể nhìn thấy sân vườn.
Cô gái rời khỏi phòng. Dường như chỉ chờ có thế, Hiromasa liền lái về câu chuyện ban nãy.
“Nói tiếp chuyện lúc nãy đi. Chú thuật ấy.”
“Là thế này…” Seimei vừa ậm ờ vừa nhấp một ngụm rượu.
“Đừng làm màu nữa.”
“Giả sử nhé. Anh cho rằng câu chú ngắn nhất trên thế gian này là cái gì?”
“Câu chú ngắn nhất ư?” Hiromasa suy nghĩ một chút. “Thôi đừng bắt tôi nghĩ tới nghĩ lui nữa, Seimei. Cậu nói cho tôi biết đi!”
“Ừm. Câu chú ngắn nhất trên thế gian này chính là tên.”
“Tên?”
“Ừ.” Seimei gật gù.
“Chẳng hạn như tên cậu là Seimei, còn tôi là Hiromasa ấy hả?”
“Đúng vậy. Những tên gọi như núi, biển, cây, cỏ, côn trùng cũng đều là một loại chú thuật cả.”
“Tôi không hiểu.”
“Chú thuật, nói đơn giản là trói buộc.”
“…”
“Mà tên chính là một thứ trói buộc hình dáng cốt lõi của sự vật.”
“…”
“Nếu trên thế gian này có một vật không thể gọi tên, thì nó chẳng là gì cả. Nói nó không tồn tại cũng được.”
“Cậu giải thích khó hiểu quá.”
“Lấy cái tên Hiromasa của anh làm ví dụ nhé. Tuy chúng ta đều là con người, nhưng anh bị câu chú ‘Hiromasa’ trói buộc, còn tôi thì bị trói buộc bởi câu chú ‘Seimei’…”
Hiromasa vẫn nghệt mặt chưa hiểu, “Nếu như không có tên, lẽ nào tôi không tồn tại trên thế gian này nữa…?”
“Không, anh vẫn tồn tại. Chỉ là Hiromasa sẽ biến mất.”
“Hiromasa là tôi mà. Nếu không có Hiromasa, chẳng phải tôi cũng không tồn tại sao?”
Seimei chỉ khẽ lắc đầu, không thừa nhận, cũng không phủ nhận.
“Có những thứ mắt thường không thể nhìn thấy. Ngay cả chúng vẫn bị trói buộc bởi câu chú gọi là tên.”
“Ồ.”
“Đàn ông thương nhớ phụ nữ. Phụ nữ cũng đem lòng nhớ thương đàn ông. Nếu dùng một cái tên để ếm cảm xúc này thì đó là ‘ái tình’…”
“Ồ…” Hiromasa gật gù song vẫn chưa hiểu, “Không mang danh ‘ái tình’ thì đàn ông vẫn thương nhớ phụ nữ, và phụ nữ cũng thương nhớ đàn ông cơ mà…” Y lại hỏi, “Đây chẳng phải là điều đương nhiên sao?”
Seimei lập tức đáp, “Hai chuyện này khác nhau chứ.”
Rồi chàng nhấm nháp chút rượu.
“Tóm lại là tôi không hiểu.”
“Vậy đổi cách diễn đạt nhé.”
“Ừ.”
“Nhìn ra sân đi.” Seimei trỏ tay ra góc sân, chỗ cây tử đằng ban nãy. “Có cây tử đằng, đúng không?”
“Đúng.”
“Tôi đã đặt cho nó cái tên Mật Trùng.”
“Đặt tên?”
“Tức là đã đặt câu chú lên nó.”
“Thế rồi sao…”
“Nó đã kiên cường chờ tôi trở về.”
“Gì cơ?”
“Hoa vẫn đang nở rộ kìa.”
“Cái tên này, nói toàn những thứ khó hiểu.” Hiromasa cự nự.
“Xem ra phải giải thích bằng chuyện nam nữ nhỉ?” Seimei vừa nói vừa nhìn Hiromasa.
“Giải thích đi!” Hiromasa sốt ruột.
“Giả như có cô gái phải lòng anh, còn anh thông qua chú thuật, ngay cả trăng trên trời đều có thể hái xuống cho nàng.”
“Bằng cách gì?”
“Thì anh chỉ lên trăng và nói ‘Hỡi người yêu dấu, ta tặng vầng trăng kia cho nàng’, là xong.”
“Cái gì!?”
“Nếu nàng ta xin vâng thì vầng trăng đã thuộc về nàng rồi.”
“Cái đó mà là chú thuật ư?”
“Là yếu tố đầu tiên của chú thuật.”
“Tôi hoàn toàn chẳng hiểu gì cả.”
“Không hiểu cũng chẳng sao. Vì đến vị đại sư ở núi Koya còn có ý định dùng một câu thần chú nguyền rủa hết thảy sự vật trên thế gian này cơ…”
Vẻ chán nản hiện rõ trên mặt Hiromasa.
“Này Seimei, cậu ở trên núi Koya những một tháng trời chỉ để đàm đạo thế này với đại sư ấy hả?”
“Ừm, đúng vậy. Thật ra là khoảng hai mươi ngày gì đó.”
“Tôi không hiểu gì về chú thuật đâu.” Nói xong, Hiromasa hớp một ngụm rượu.
“Này, trong lúc tôi vắng mặt, nơi đây có chuyện gì thú vị không?” Seimei dò hỏi.
“Chẳng phải chuyện thú vị, nhưng… Tadami đã qua đời cách đây mười ngày.”
“Chính là Mibu no Tadami ‘Ôi chuyện tình ta’ đó ư?”
“Ừ. Bị suy kiệt mà chết.”
“Thực sự ông ta không ăn không uống?”
“Cũng xem như là chết đói đấy.” Hiromasa đáp.
“Lần đó… vào tháng Ba năm nay nhỉ?”
“Ừm.”
Hai người cúi đầu hồi tưởng về hội thơ tổ chức tại điện Thanh Lương vào tháng Ba.
Thi nhân ngồi thành hàng hai bên trái phải, sau khi chọn đề thì bắt đầu ngâm thơ, mỗi bên lần lượt ngâm một bài, cuối cùng đem thơ ra so sánh. Hội thơ chính là như vậy.
“Ôi chuyện tình ta” mà Seimei vừa nhắc là câu đầu tiên trong bài thơ của Mibu no Tadami.
Ôi chuyện tình ta
truyền lan trong nhân thế
Từ đầu ta chỉ muốn
giữ riêng mình mà thôi.
Đây là bài thơ Tadami sáng tác.
Khi ấy đối thủ của Tadami chính là Taira no Kanemori.
Thâm tình chôn giấu
mặt ngoài khó che
Xung quanh gạn hỏi
thương nhớ ai chăng?
Còn trên đây là bài của Kanemori.
Hai bài thơ khiến vị bình phán là Fujiwara no Saneyori khó bề phân xử. Đúng lúc ấy, thiên hoàng Murakami vốn vẫn ngồi yên xem chợt nhỏ giọng lẩm nhẩm mấy câu. Là mấy câu trong bài Thâm tình.
Fujiwara no Saneyori liền tuyên bố người thắng cuộc là Kanemori, Tadami lập tức tái mét mặt, hét lên thất thanh “Á á!”. Việc này trở thành đề tài đàm tiếu trong cung suốt một thời gian.
Từ hôm đó, Tadami không thiết ăn uống, cả ngày ở nhà nằm lì trên giường.
“Nghe nói cuối cùng ông ta cắn lưỡi chết.” Tựa hồ có ăn cũng nuốt không trôi.
“Trông thì tao nhã, hóa ra bên trong lại là một kẻ cực kì chấp nhất nhỉ.” Seimei lẩm bẩm.
“Thật chẳng tin nổi. Đấu thơ thua thì thôi, lại còn tuyệt thực.” Hiromasa nghiêm túc nói rồi uống thêm hớp rượu.
Hai người đều tự ẩm tự châm. Seimei rót rượu vào chén mình, Hiromasa đưa mắt nhìn Seimei và kể, “À, đã xuất hiện rồi đấy.”
“Xuất hiện?”
“Hồn ma Tadami xuất hiện ở điện Thanh Lương rồi.”
“Ồ!” Khóe miệng Seimei khẽ nhếch lên.
“Nghe nói mấy tên lính canh nhìn thấy Tadami mặt xanh môi tái, miệng ngâm nga bài Ôi chuyện tình ta giữa cơn mưa đêm lâm thâm, chậm rãi đi từ điện Thanh Lương đến điện Tử Thần…”
“Hay đấy.”
“Không hay ho gì đâu, Seimei! Chuyện xảy ra mười mấy ngày nay rồi. Chẳng may truyền đến tai thánh thượng khiến người kinh sợ, có khi lại ban chiếu dời đô đấy.”
Không ngờ nét mặt Seimei chợt trở nên nghiêm trọng, liên tục đồng tình “Ừ nhỉ, ừ nhỉ”.
“Được rồi, sao nào, Hiromasa…” Seimei đột nhiên nói.
“Sao?”
“Cứ từ từ mà nói. Chẳng phải anh có chuyện muốn nói với tôi ư?”
“Cậu biết à?”
“Viết rành rành trên mặt anh kìa. Ai bảo anh thật thà quá cơ.”
Dù lời nói của Seimei mang theo ý trêu ghẹo, vẻ mặt Hiromasa vẫn rất nghiêm túc.
“Thật ra là, Seimei à…” Ngữ điệu của Hiromasa thay đổi. “Vào buổi tối năm hôm trước, cây Huyền Tượng mà thánh thượng coi trọng đã bị trộm mất…”
“Ô hô.” Seimei vẫn cầm chén rượu trên tay, rướn người tới trước.
Huyền Tượng là tên của một cây đàn tỳ bà. Tuy là nhạc cụ, nhưng chính bởi nó rất quý giá nên có tên riêng luôn. Đàn này vốn đem từ nhà Đường sang và được thiên hoàng Daigo coi là báu vật.
Hồ cầm giáo lục (quyển Hạ) có chép, “Lưng làm bằng gỗ tử đàn, bụng ghép từ ba mảnh gỗ tần bì.”
“Cũng chẳng có chút manh mối là ai trộm, lúc nào và bằng cách gì.”
“Chuyện này rắc rối đấy.”
Ngoài miệng nói vậy nhưng thái độ của Seimei vẫn hết sức thản nhiên. Dường như trước mặt Hiromasa, Seimei chẳng hề che giấu bản thân.
“Nhưng đêm hôm kia, tôi đã nghe thấy âm thanh của cây Huyền Tượng ấy.”
Lúc nghe thấy tiếng Huyền Tượng, là lúc Hiromasa đang trực ở điện Thanh Lương.
Tình huống bấy giờ cũng được chép trong Kim tích vật ngữ tập.
Vốn tinh thông nhạc khí, người này (Hiromasa) vẫn ưu phiền không ngớt về việc Huyền Tượng bị mất trộm. Trong đêm thanh vắng, ở điện Thanh Lương, Hiromasa chợt nghe tiếng Huyền Tượng từ hướng Nam vọng tới.
Hiromasa bừng tỉnh dỏng tai lắng nghe, đó đích thực là âm thanh quen thuộc của Huyền Tượng. Thoạt tiên y thầm nghĩ, “Lẽ nào linh hồn của Mibu no Tadami oán hận thiên hoàng Murakami bởi chuyện hội thơ, mới trộm Huyền Tượng rồi mang ra cổng Chu Tước ở phía Nam để gảy?”
Cho rằng bản thân nghe lầm, y căng tai nghe lần nữa. Quả nhiên là tiếng đàn tỳ bà, là âm sắc không lẫn vào đâu được của Huyền Tượng. Một người “tinh thông nhạc khí” như Hiromasa tuyệt đối không thể nghe nhầm.
Lòng đầy ngờ vực, Hiromasa không báo với ai, chỉ mang theo một thư đồng phục dịch, khoác thường phục, xỏ guốc mộc ra ngoài. Họ rời khỏi phòng trực của cấm vệ phủ Vệ môn, đi xuôi về hướng Nam, đến cổng Chu Tước.
Nhưng tiếng tỳ bà vẫn ở phía trước. Vì vậy Hiromasa tiếp tục đi dọc đại lộ Chu Tước xuống phía Nam.
“Nếu không phải cổng Chu Tước, lẽ nào lại ở lầu Vật Kiến đằng trước kia?”
Xem ra không phải hồn ma Tadami, mà là tên trộm Huyền Tượng đã leo lên lầu Vật Kiến gảy tỳ bà.
Vậy mà khi tới lầu Vật Kiến, Hiromasa vẫn nghe thấy tiếng đàn vang lên ở phía Nam. So với lúc ở điện Thanh Lương, âm lượng không hề thay đổi. Thật kì quái! Không thể nghĩ chuyện này là do con người làm.
Mặt thư đồng tái mét đi.
Sau đó họ tiếp tục di chuyển xuống phía Nam kinh thành, đi nữa, đi mãi, rồi không biết từ lúc nào đã đứng trước cổng La Thành. Đây là cổng thành lớn nhất Nhật Bản. Cao chín gian bảy thước, đen tuyền và lừng lững giữa trời đêm.
Chẳng biết tự bao giờ, màn mưa phùn mỏng như sương đã giăng khắp xung quanh.
Tiếng tỳ bà trên cao vọng xuống.
Bốn bề tối đen như mực. Ngọn đèn trên tay thư đồng soi được lờ mờ lầu dưới cổng La Thành, nhưng lầu trên vẫn chìm trong bóng tối, không thể trông rõ thứ gì.
Giữa màn đêm, tiếng tỳ bà réo rắt ngân nga.
“Hay là mình về thôi ạ.” Tên thư đồng nài nỉ.
Nhưng Hiromasa là người đàn ông chính trực. Đã đi đến đây, lý nào lại trở về.
Hơn nữa, tiếng đàn ấy mới tuyệt diệu làm sao. Dù chưa nghe qua khúc nhạc này bao giờ thì âm sắc của nó vẫn làm cõi lòng Hiromasa rung động mãnh liệt.
Tích…
Tiếng tỳ bà vang lên.
Tịch…
Tang…
Âm sắc bi thương mà diễm lệ. Đau buồn tột bậc.
“Chà, quả thật trên đời vẫn còn những khúc nhạc bí truyền đang được cất giấu.” Hiromasa cảm thán.
Tháng Tám năm ngoái, y được thưởng thức hai khúc tỳ bà bí truyền là Lưu tuyền và Trác mộc của một lão hòa thượng mù tên là Semimaru.
Phải mất đến ba năm giao du, Hiromasa mới được nghe khúc nhạc này.
Hồi ấy ở ải Osaka có lão hòa thượng mù dựng am sinh sống. Trước đây lão vốn làm tạp dịch trong phủ thức bộ khanh.
Lão hòa thượng ấy chính là Semimaru.
Có người bảo lão là cao nhân về diễn tấu tỳ bà, biết chơi cả những khúc nhạc đã thất truyền mà bây giờ chẳng ai gảy được nữa, tỉ như Lưu tuyền hay Trác mộc.
Hiromasa vẫn lừng danh tinh thông tỳ bà và sáo, nên vừa biết chuyện này liền khao khát thưởng thức tiếng tỳ bà của lão hòa thượng. Thậm chí còn phái người đến nơi ở của Semimaru tại Osaka để chuyển lời.
Hà cớ ngụ cư chốn bất kham
Chi bằng lai kinh.
Ý là, “Tại sao đại sư lại sống ở nơi khó sống thế này? Về kinh thành sinh sống nhé, đại sư thấy sao?”
Nhưng Semimaru chỉ lẳng lặng gảy đàn, dùng ngâm xướng thay cho lời đáp.
Đời người thì cũng bấy nhiêu
Lầu son mái lá khác nhiều gì đâu.
“Trên cuộc đời này chỉ cần có thể sinh tồn. Cung điện xa hoa hay nhà tranh vách đất cũng không có gì khác biệt, chẳng phải tất cả đều là những thứ vô thường hay sao…” Lời ngâm xướng ngụ ý như vậy.
Nhận được phúc đáp, Hiromasa càng cảm phục lão hòa thượng, “Sao mà lại có nhân vật thú vị đến thế!”
Nỗi tha thiết được nghe tiếng tỳ bà của Semimaru càng sục sôi.
Lão hòa thượng chẳng phải trường sinh bất lão, chính Hiromasa cũng không biết mình sẽ chết lúc nào. Vạn nhất lão hòa thượng có gì bất trắc, sợ rằng hai khúc nhạc bí truyền Lưu tuyền và Trác mộc cũng sẽ biến mất khỏi thế gian. Y muốn được thưởng thức chúng xiết bao. Dù gì cũng phải nghe cho bằng được. Bằng bất cứ giá nào. Hiromasa nghĩ mà rối cả lòng.
Thế nhưng, giả sử đến gặp và yêu cầu lão đàn những khúc nhạc kia, phỏng chừng lão sẽ không đáp ứng. Cho dù lão bằng lòng thì cũng không rõ trong đó có bao nhiêu phần cam tâm tình nguyện. Nếu có thể, Hiromasa muốn được nghe lão hòa thượng tự nguyện, thật lòng thật dạ diễn tấu cho.
Từ sau hôm hạ quyết tâm, mỗi đêm người đàn ông bộc trực này lại tìm đến nơi ở của lão hòa thượng. Hiromasa trốn gần am Semimaru, thắc thỏm chờ mong may ra hôm nay lão sẽ gảy đàn.
Ba năm thấm thoắt trôi qua.
Cả những hôm trực đêm, không thể rời thành, lòng nhiệt tình của Hiromasa vẫn chẳng hề nguôi ngoai.
Đêm trăng thi vị thế này thì hôm nay lão sẽ gảy đàn thôi…
Tiếng côn trùng rả rích như đêm nay rất thích hợp với bài Lưu tuyền…
Trong những đêm như thế, Hiromasa luôn khấp khởi chờ mong “Nay lão sẽ đàn, nay lão sẽ đàn”. Và rồi vào đêm 15 tháng Tám của năm thứ ba. Một đêm trăng mờ khuất, gió thổi hiu hiu.
Cuối cùng khúc nhạc réo rắt cũng vang lên.
Chỉ là một đoạn ngắn của khúc Lưu tuyền mà Hiromasa từng nghe qua.
Y chăm chú lắng nghe. Giữa màn đêm mờ ảo, lão hòa thượng cao hứng vừa gảy tỳ bà vừa ngâm nga.
Phùng Bản quan nổi dông to
đêm dài đằng đẵng cũng đành mà thôi.
Trích Kim tích vật ngữ tập, “Hiromasa nghe xong lệ rơi lã chã, sầu thương vô hạn”.
Đàn một lát, vị hòa thượng thì thầm như tự nhủ, “Chà, tối nay thật cao hứng làm sao. Chẳng lẽ trên thế gian này không còn ai tri âm cùng ta? Đêm nay có ai am hiểu ít nhiều về tỳ bà đến thăm ta không? Thật muốn hàn huyên với người ấy suốt đêm…”
Nghe vậy, Hiromasa bất giác bước ra, “Người ấy đang ở ngay đây.” Mặt đỏ bừng vì vui sướng và hồi hộp, nhưng người đàn ông thành thật ấy vẫn giữ vẻ nho nhã và lễ độ.
“Xin hỏi ông là ai?”
“Có thể đại sư quên, tôi từng phái người đến mời đại sư vào thành, tên là Minamoto no Hiromasa.”
“Ồ, ra là khi ấy…” Semimaru vẫn nhớ Hiromasa.
“Bài vừa nãy là Lưu tuyền phải không?” Hiromasa hỏi.
“Ông rất am tường đấy.”
Ngữ điệu của Semimaru chứa sự ngạc nhiên xen lẫn vui mừng khiến Hiromasa lâng lâng tận chín tầng mây. Sau đó, thể theo tâm nguyện của Hiromasa, lão hòa thượng đã diễn tấu trọn vẹn khúc nhạc bí truyền Trác mộc cho y nghe.
Tiếng tỳ bà từ cổng La Thành vọng xuống không khỏi làm Hiromasa hồi tưởng lại tối hôm ấy. Khúc nhạc y nghe lúc này còn tuyệt diệu hơn cả Lưu tuyền và Trác mộc. Giai điệu của nó dị thường, thống thiết, bi thương khôn xiết.
Hiromasa nhớ lại, lòng xúc động đến lạ. Y lắng tai nghe tiếng tỳ bà vọng xuống từ bóng tối phía trên một lúc. Cuối cùng, y lên tiếng.
“Vị nào đang gảy tỳ bà trên cổng La Thành đấy? Âm sắc này chắc chắn là của cây Huyền Tượng mất trộm trong cung đêm trước. Ta nghe thấy hồi nãy lúc ở điện Thanh Lương và bị nó thu hút đến đây. Huyền Tượng vốn là báu vật của thánh thượng…”
Hiromasa chưa kịp nói xong thì tiếng đàn đã ngưng bặt, bốn bề tịch mịch.
Ngọn đèn trên tay thư đồng cũng vụt tắt.
“Vì vậy tôi đành quay về.” Hiromasa kể lại cho Seimei.
Thư đồng khóc lóc run rẩy, đèn đóm thì tắt ngóm, chủ tớ gặp một phen chật vật.
“Chuyện xảy ra hôm kia à?”
“Ừ.”
“Tối qua thì sao?”
“Thật ra tối qua tôi cũng nghe thấy tiếng tỳ bà.”
“Anh đi theo không?”
“Có. Lần này tôi đi một mình.”
“Ra cổng La Thành?”
“Ừ. Một mình tôi tới đó. Nghe diễn tấu tỳ bà một lúc. Có thể gảy tỳ bà đến trình độ ấy thì không thể là con người được. Tôi vừa cất lời là tiếng đàn im bặt. Đèn cũng tắt. Tuy nhiên lần này có sự chuẩn bị trước nên tôi lập tức thắp đèn rồi leo lên…”
“Leo lên? Anh leo lên cổng La Thành ư?”
“Đúng vậy.”
Quả là người đàn ông gan dạ đến khó tin. Nơi đó không chỉ tối tăm bình thường mà là tối đen như mực. Giả sử đối phương là con người, nhỡ vừa lên tới nơi đã bị hắn đột ngột chém cho một nhát thì anh tránh làm sao.
“Nhưng mà lại thôi.” Hiromasa nói thêm.
“Thôi lên cổng á?”
“Ừ. Tôi leo được nửa chừng thì nghe thấy tiếng người.”
“Tiếng người?”
“Tôi không rõ là tiếng người hay tiếng gì, từa tựa tiếng gào khóc của người hoặc thú. Rất đáng sợ.” Hiromasa kể. “Tôi đang vừa ngẩng đầu xem xét vừa leo lên vùng tối om bên trên thì bỗng bị thứ gì đó rơi vào mặt…”
“Thứ gì?”
“Khi trở xuống xem kĩ, tôi mới biết là tròng mắt người đã thối rữa. Chắc lấy từ mồ mả nào đấy. Sau đó tôi chẳng còn lòng dạ nào để quay trở lên nữa,” Hiromasa nói thêm. “Miễn cưỡng leo lên mà khiến Huyền Tượng bị hủy hoại thì cũng vô nghĩa.”
“Vậy anh cần tôi làm gì?” Seimei hỏi.
Lúc này rượu đã cạn, cá hương cũng hết.
“Tối nay đi với tôi.”
“Anh vẫn muốn đi sao?”
“Đi chứ.”
“Thánh thượng biết chuyện không?”
“Không. Tôi vẫn tự giữ kín và dặn thư đồng không được hé răng rồi.”
“Hừm.”
“Thứ ở trên cổng La Thành, không phải người đâu nhỉ.”
“Nếu không phải người thì là gì?”
“Tôi không biết. Có lẽ là quỷ. Nói chung, không phải con người thì tức là việc của cậu rồi, Seimei.”
“Hóa ra vậy.”
“Tuy phải lấy lại Huyền Tượng, nhưng thật ra tôi vẫn muốn nghe tiếng đàn ấy thêm nữa.”
“Tôi đồng ý.”
“Ừ.”
“Đổi lại tôi có một điều kiện, được không…”
“Điều kiện gì?”
“Mang theo rượu.”
“Mang rượu?”
“Tôi muốn vừa uống rượu vừa nghe tiếng đàn đó.”
Seimei nói xong, Hiromasa im lặng một lúc, trầm ngâm nhìn chàng.
“Được thôi.” Y nhỏ giọng.
“Vậy đi nào!”
“Đi!”
Chuyện là như thế.
Tối hôm đó, có ba người đến chỗ hẹn.
Địa điểm là trước điện Tử Thần. Dưới tán anh đào.
Seimei xuất hiện hơi muộn. Chàng mặc bộ áo săn trắng đơn giản, tay trái lủng lẳng xách theo bình rượu to buộc dây. Tay phải cầm đèn lồng nhưng chưa thắp, phỏng chừng cứ đi tối om om như vậy mà đến đây. Chân xỏ hài da đen.
Hiromasa đã đợi sẵn. Ăn bận uy phong lẫm liệt như sắp sửa ra trận. Mình bận triều phục, đầu đội mão quan. Hông trái đeo trường kiếm, tay phải cầm cung. Lưng đeo ống tên.
“Hê!” Seimei chào.
“Ừ.” Hiromasa đáp.
Đứng cạnh Hiromasa là một người đàn ông trông giống hòa thượng, vóc dáng thấp bé, lưng đeo cây đàn tỳ bà nhỏ.
“Vị này là đại sư Semimaru.”
Hiromasa giới thiệu lão hòa thượng với Seimei.
Semimaru hơi khom gối, gật đầu hành lễ.
“Ông chính là Seimei?”
“Vâng. Tôi là Abe no Seimei của Âm dương đạo quán.” Ngữ điệu chàng kính cẩn, cử chỉ điềm đạm. “Tôi đã được nghe Hiromasa kể về đại sư.”
So với khi ở riêng với Hiromasa, lời ăn tiếng nói của Seimei lúc này tao nhã hơn nhiều.
“Bần tăng cũng được ông Hiromasa kể cho nghe về ông Seimei.” Lão hòa thượng nhỏ thó cúi đầu. Cổ lão mảnh mai như cổ sếu.
“Tôi kể chuyện tiếng tỳ bà vang vọng nửa đêm. Đại sư Semimaru bèn nói nhất định phải tới nghe thử.” Hiromasa giải thích.
Seimei nhìn Hiromasa một lúc rồi hỏi, “Mỗi tối anh đều ăn bận thế này ra ngoài à?”
“Nào có, vì đêm nay có khách nữa mà. Nếu đi một mình, tôi cần gì phải trịnh trọng…” Hiromasa vừa dứt lời, từ điện Thanh Lương vọng ra thanh âm trầm thấp não nề của đàn ông.
Ôi chuyện tình ta…
Thanh âm khẽ khàng mà sầu thảm, càng lúc càng tới gần. Trong màn đêm, lờ mờ nhìn thấy bóng trắng thoắt ẩn thoắt hiện đang rẽ sang mé Tây điện Tử Thần.
Giữa khí đêm lạnh lẽo, những hạt mưa mỏng hơn tơ giăng khắp lối tựa sương mù. Và bóng người lập lờ kia ngỡ như là do mưa bay ngưng tụ.
Truyền lan trong nhân thế…
Cái bóng lững lờ trôi tới dưới tàng quýt. Gương mặt tái xanh thẫn thờ. Thân mặc trang phục trắng của quan văn. Đầu đội mão phốc, hông đeo trường kiếm nghi lễ, đuôi áo lệt phệt trên đất.
“Kia là ông Tadami à?” Seimei nhỏ giọng hỏi.
“Seimei!” Hiromasa nhìn chàng, “Ông ta xuất hiện ở đây là có nguyên do của mình. Mặc kệ đi…”
Kì thực Seimei cũng không định dùng thuật Âm dương làm gì.
Từ đầu ta chỉ muốn, giữ riêng mình mà thôi.
Bóng trắng biến mất trước điện Tử Thần. Tựa hồ tan vào không khí, cả tiếng ngâm thơ cũng biến mất theo.
“Quả là thanh âm thê lương.” Semimaru thì thầm.
“Ông ta giờ cũng coi như quỷ rồi.” Seimei đáp.
Không lâu sau, họ nghe thấy tiếng tỳ bà vọng đến.
Bộp, Seimei khẽ vỗ tay.
Lập tức từ trong màn đêm, một cô gái lẳng lặng hiện ra. Bộ đường y tầng tầng lớp lớp, hay còn gọi là áo mười hai lớp, ôm lấy thân hình yểu điệu. Nàng vừa kéo vạt áo phía sau, vừa bước vào vùng sáng đèn lồng của Hiromasa.
Bộ đường y bồng bềnh mang màu hoa tử đằng.
Cô gái dừng trước mặt Seimei, ngại ngùng khẽ khép đôi rèm mi trắng.
“Để Mật Trùng dẫn đường cho chúng ta.” Seimei nói.
Cô gái vươn đôi tay trắng nõn đón lấy đèn lồng của Seimei. Viu, ngọn đèn được thắp lên.
“Mật Trùng?” Hiromasa nghi hoặc. “Đấy không phải là cái tên cậu đặt cho cây tử đằng cổ thụ à?”
Hiromasa chợt nhớ tới sắc tử đằng hồi sáng trên chùm hoa duy nhất đang nở rộ trong vườn nhà Seimei, cùng hương thơm ngọt ngào của nó. Không, đâu chỉ nhớ tới. Hương thơm ấy quả thật đang tỏa ra từ người con gái trước mắt, hòa vào đêm đen, rồi bay vào khoang mũi y.
“Là thức thần sao?”
Nghe hỏi, Seimei liền mỉm cười nói khẽ, “Là chú thuật.”
Hiromasa ngây người quan sát Seimei.
“Cậu thực sự là một kẻ kì lạ.” Y nói, xen tiếng thở dài.
Hiromasa nhìn lồng đèn của Seimei trên tay cô gái, rồi ngó xuống lồng đèn trong tay mình. Semimaru không mang theo đèn, thành thử Hiromasa là người duy nhất cầm đèn.
“Chỉ có tôi cần đèn thôi à?”
“Bần tăng là người mù lòa nên ngày hay đêm đều như nhau.” Semimaru thấp giọng nói.
Trong bộ đường y màu tím, Mật Trùng nhẹ nhàng xoay người tiến vào màn mưa bụi như sương.
Tang.
Tiếng tỳ bà vang lên.
“Ta đi thôi!” Seimei nói.
Trong không gian lạnh lẽo mờ sương, Seimei bước đi, tay xách bình rượu lủng lẳng.
Thi thoảng chàng lại đưa bình rượu lên miệng, uống một ngụm, dáng vẻ rất hưởng thụ tiếng đàn tỳ bà.
“Hiromasa cũng uống chứ?” Chàng hỏi.
“Thôi.” Ban đầu Hiromasa nhất mực từ chối.
“Anh sợ say rồi sẽ bắn trật tên hả?”
Bị Seimei trêu ghẹo, Hiromasa bắt đầu uống.
Tiếng đàn tỳ bà thê lương vẫn ngân vang.
Từ nãy đến giờ, Semimaru chỉ im lặng mải mê lắng nghe tiếng đàn trong lúc bước đi.
“Lần đầu bần tăng được nghe khúc nhạc có giai điệu sầu thương đến vậy.” Lão chợt lẩm bẩm.
“Đến thắt cả lòng ấy nhỉ.” Hiromasa khoác cung lên vai, góp lời.
“Dường như là giai điệu của ngoại quốc.” Seimei vừa hớp ngụm rượu vừa bình phẩm.
Cây cối đứng lặng trong bóng đêm, mùi lá thơm phả vào không khí. Họ đã tới chân cổng La Thành.
Quả nhiên, tiếng tỳ bà réo rắt từ trên cổng thành vọng xuống.
Ba người chẳng nói một lời, lắng tai nghe một hồi. Trong lúc ấy, khúc nhạc thi thoảng lại thay đổi. Đến một quãng nọ, Semimaru mới nói thật khẽ, “Giai điệu này bần tăng còn nhớ mang máng…”
“Sao cơ!?” Hiromasa nhìn lão.
“Bần tăng nhớ, có vị thức bộ khanh quá cố nọ, lúc sinh thời từng diễn tấu một khúc nhạc bần tăng không rõ tên, chính là khúc nhạc này.”
Semimaru gỡ cây tỳ bà trên vai xuống, cầm trong tay.
Tang.
Đoạn, lão gảy đàn dựa theo giai điệu đang cất lên trên cổng La Thành.
Tang.
Tang.
Âm thanh của hai cây tỳ bà bắt đầu quấn quýt lấy nhau. Ban đầu tiếng tỳ bà của Semimaru còn trễ nhịp, về sau chắc là nhận ra, kẻ trên cổng thành liền đàn lại khúc nhạc nọ. Sau vài lần đàn qua đàn lại, tiếng đàn của Semimaru không còn trễ nhịp nữa, cuối cùng hầu như đã giao hòa với tiếng tỳ bà trên cổng La Thành.
Những âm thanh tuyệt diệu. Hai tiếng tỳ bà hài hòa, quyện vào nhau, ngân lên trong đêm tối. Âm thanh hay đến sởn da gà ấy cứ nối tiếp nhau mãi.
Semimaru bất chợt nhắm đôi mắt mù lòa, thả hồn theo từng nhịp gảy. Nét vui sướng hiện rõ trên gương mặt lão.
“Tôi hạnh phúc quá Seimei…” Hiromasa thầm thì, mắt ngân ngấn lệ. “Là người trần mắt thịt mà chính tai được nghe màn diễn tấu tỳ bà thế này.”
Tang.
Tang.
Tiếng đàn vút lên nền trời u ám. Cùng một tiếng kêu. Rất trầm, như tiếng dã thú. Thoạt đầu là âm thanh rù rì se sẽ lẫn vào tiếng tỳ bà, rồi cứ to dần lên, từ trên cổng La Thành vọng xuống.
Kẻ trên kia đang vừa gảy đàn vừa khóc nức nở.
Không biết tự khi nào, hai cây tỳ bà đều im bặt, chỉ chừa lại tiếng gào khóc nỉ non.
Như cố đuổi theo chút dư âm tiếng đàn còn vương trong không khí, Semimaru nhìn thẳng lên trời bằng đôi mắt mù lòa, vẻ mặt hạnh phúc không gì sánh được.
Bắt đầu có tiếng nói xen lẫn trong tiếng khóc.
Là tiếng nước ngoài.
“Không phải tiếng Đại Đường,” Seimei nhận xét. Chăm chú nghe một hồi, chàng thốt, “Là tiếng Thiên Trúc.”
Thiên Trúc tức Ấn Độ.
“Cậu hiểu không?” Hiromasa hỏi.
“Một chút.” Nhờ quen biết khá nhiều hòa thượng, chàng bổ sung.
“Nó nói gì?”
Seimei lại lắng tai nghe, rồi nói, “Nó bảo ‘Sầu quá!’. Rồi lại ‘Vui quá!’. Sau đó réo tên người phụ nữ nào đấy thì phải…”
Tiếng Thiên Trúc là ngôn ngữ của Ấn Độ cổ, còn gọi là tiếng Phạn.
Kinh sách của Phật giáo vốn được viết bằng thứ tiếng này, ngay cả kinh Phật được viết ở Trung Quốc cũng là phiên âm y chang sang bằng chữ Hán thôi. Thời Heian cũng có vài người nói được tiếng Phạn. Thực tế, Nhật Bản thời Heian còn có người Thiên Trúc sinh sống.
“Thế tên người phụ nữ kia là gì?”
“Nó gọi là Su-ri-a.”
“Su-ri-a?”
“Có thể là Suuriya hoặc Suriia gì đấy.”
Seimei điềm nhiên ngước nhìn cổng La Thành. Bởi quầng sáng đèn lồng rất hạn chế nên phần không gian ngay bên trên hoàn toàn chìm trong màn đêm đen đặc. Seimei hướng mặt lên lầu hai cổng thành, nhẹ giọng chào hỏi bằng thứ tiếng ngoại quốc kia.
Tiếng khóc chợt ngưng bặt.
“Cậu nói gì thế?”
“Tôi khen, ‘Tiếng đàn hay lắm.’ ”
Ngay sau đó, từ trên lầu vọng xuống giọng nói trầm thấp, “Các vị đàn âm nhạc của nước ta, nói tiếng của nước ta, các vị là ai?”
Tuy phát âm có phần trọ trẹ, nhưng đây rõ ràng là tiếng Nhật không lẫn vào đâu được.
“Chúng ta là những người phục vụ cho hoàng cung ở kinh thành này.” Hiromasa trả lời.
“Các vị tên gì?” Kẻ kia hỏi.
“Minamoto no Hiromasa.” Hiromasa trả lời.
“Minamoto no Hiromasa, ông là người từng đến đây hai đêm liền đúng chứ?” Giọng nói lại vọng xuống.
“Đúng vậy.” Hiromasa đáp.
“Bần tăng là Semimaru.” Semimaru lên tiếng.
“Semimaru… ông là người gảy đàn lúc nãy sao?”
Kẻ kia vừa dứt câu, Semimaru liền khảy một tiếng “tang” thay cho lời đáp.
“Còn ta là Masanari.” Seimei xưng danh.
Hiromasa lập tức hoang mang nhìn chàng, vẻ mặt như muốn hỏi “Vì sao cậu lại xưng tên giả?”.
Seimei mặt tỉnh bơ, ngẩng đầu nhìn cổng La Thành.
“Còn một người nữa…” Kẻ kia đang nói bỗng ngừng lại một chút, rồi lẩm bẩm.“Hình như không phải con người.”
“Không sai.” Seimei đáp.
“Là tinh linh?” Kẻ kia hạ giọng.
Seimei gật đầu.
Có vẻ từ trên cao nó đã quan sát được hết mọi động tĩnh bên dưới.
“Còn ngươi, có tên không?” Seimei hỏi.
“Kandata…” Nó lí nhí đáp.
“Một cái tên ngoại quốc ư?”
“Đúng thế. Ta sinh ra ở nơi mà các vị gọi là Thiên Trúc.”
“Phỏng chừng ngươi không còn trên cõi đời này?”
“Đúng.” Kandata đáp.
“Thế còn thân phận của ngươi?”
“Ta là một nhạc sư lang bạt. Vốn là con tỳ thiếp của quốc vương một tiểu quốc, do bại trận trước nước láng giềng nên phải rời bỏ quê hương. Từ nhỏ ta đã hứng thú với âm nhạc hơn võ nghệ, đến năm mười tuổi, có thể chơi thành thạo các loại nhạc cụ. Đặc biệt là nguyệt cầm năm dây…”
Giọng nói chất chứa đầy nỗi nhớ thương.
“Ôm theo nguyệt cầm, lưu lạc sang Đại Đường, ta trải qua phần lớn cuộc đời mình ở đó. Ta đến đất nước này cũng được hơn một trăm năm mươi năm trước rồi. Theo thuyền của đại sư Kukai mà vào…”
“Ồ.”
“Ta chết là chuyện cách đây một trăm hai mươi tám năm. Dạo ấy, ta chế tác tỳ bà và nhiều nhạc cụ khác gần chùa Pháp Hoa tại kinh đô Heijo. Một đêm nọ, ta bị kẻ trộm đột nhập chém đứt đầu mà chết.”
“Vì sao ngươi lại ra nông nỗi thế này?”
“Ta vẫn muốn nhìn thấy cố hương một lần trước khi chết. Lòng ta cứ mãi bi ai cho tấm thân tha hương, cuối cùng lại bỏ mạng nơi xứ người. Có lẽ chính chấp niệm ấy khiến ta chưa thể siêu thoát.”
“Ra thế…” Seimei gật gù. “Có điều, Kandata à…” Chàng đột nhiên lên tiếng.
“Mời nói.” Kẻ kia đáp.
“Vì sao ngươi lại trộm cây tỳ bà Huyền Tượng?”
“Thật ra cây Huyền Tượng này là do chính tay ta làm khi còn ở Đại Đường.” Ngữ điệu trầm thấp mà điềm tĩnh.
Seimei thở dài thật to, “Hóa ra vậy…”
“Quả là một mối duyên kì lạ, ông Masanari…”
Đối phương gọi bằng cái tên giả mà Seimei đã khai ban nãy. Nhưng chàng không trả lời.
“Ông Masanari…” Âm thanh kia lại gọi.
Hiromasa nhìn Seimei. Seimei nở nụ cười nhẹ trên đôi môi hồng phớt, mắt vẫn nhìn lên cổng thành tối tăm.
Đột nhiên, Hiromasa sực nhớ ra một chuyện.
“Cây Huyền Tượng này có thể từng thuộc về ngươi, nhưng hiện tại nó là vật của chúng ta. Ngươi trả lại cho chúng ta được không?” Y nói, mắt ngước lên trên.
“Trả lại chẳng phải việc khó, chỉ là…” Kẻ kia khẽ nói, trầm mặc đôi chút mới tiếp tục. “Ngược lại ta cũng có điều muốn thỉnh cầu.”
“Là gì?”
“Thật xấu hổ nhưng lúc lẻn vào cung, ta đã thương thầm nhớ trộm một nữ quan.”
“Cái gì?”
“Ta từng cưới vợ năm 16 tuổi, vị nữ quan đó giống vợ ta như đúc.”
“…”
“Nói thật, vì muốn gặp nữ quan đó, đêm đêm ta đều lẻn vào cung nên mới thấy Huyền Tượng…”
“…”
“Mặc dù có thể ép buộc nàng thành người của mình, ta lại không đành lòng. Bởi vậy thay vào đó, ta lấy Huyền Tượng, đem gảy an ủi lòng mình, hồi tưởng dĩ vãng, và hoài niệm Suurya.”
“Thế thì…”
“Hãy nói tâm tư của ta cho nàng, mời nàng đến chỗ ta một lần. Một đêm thôi là đủ. Giúp ta xin nàng một đêm duyên tình. Được như thế, khi nàng trở về vào sáng hôm sau, ta sẽ lập tức rời khỏi chốn này…”
Dứt lời, chủ nhân giọng nói ấy lại buồn bã khóc nấc lên.
“Hiểu rồi.” Người trả lời là Hiromasa. “Ta sẽ trở về bẩm tấu thánh thượng. Nếu người chấp thuận nguyện vọng ấy thì đêm mai, cũng vào giờ này, ta sẽ đưa cô ta đến đây.”
“Đa tạ.”
“Vậy, trông cô ta thế nào?”
“Đó là vị nữ quan trắng trẻo, trên trán có nốt ruồi, tên Tamakusa.”
“Nếu được ân chuẩn, trưa mai ta sẽ bắn mũi tên này lên đấy. Còn không, ta sẽ sơn nó thành màu đen rồi mới bắn.”
“Nhờ các vị.” Kẻ kia đáp.
“Mà, này…” Seimei im lặng nãy giờ, đột ngột gọi với lên cổng thành. “Ngươi gảy cho chúng ta nghe tiếng tỳ bà ban nãy một lần nữa được không?”
“Tỳ bà sao…”
“Ừm.”
“Ông không cần cầu xin chuyện ấy. Đáng nhẽ ta phải xuống dưới diễn tấu, nhưng tướng mạo ta bây giờ rất xấu xí, đành phải gảy đàn trên lầu vậy.” Kẻ kia nói.
Tang.
Cung đàn ngân lên. Giai điệu không tan biến ngay, mà giăng mắc trong không gian như tơ nhện. So với ban nãy, khúc nhạc càng thêm phần thi vị.
Mật Trùng nãy giờ vẫn đứng yên bỗng nhiên cúi mình đặt đèn xuống đất, rồi thẳng người dậy, vươn cánh tay trắng ngần lên giữa màn đêm, uyển chuyển xoay người và bắt đầu múa theo tiếng tỳ bà.
“Ôi…” Hiromasa trầm trồ.
Vũ điệu và tiếng đàn đều đã dứt. Tiếng nói lại từ trên cao vọng xuống.
“Điệu múa thật tuyệt vời. Đêm nay xin được dừng tại đây. Để đề phòng, xem ra ta phải cho các vị thấy chút năng lực của mình vậy.”
“Đề phòng?”
“Đề phòng ngày mai các vị giở trò.”
Lời vừa dứt, từ gác hai cổng La Thành, một vầng sáng lục nhẹ nhàng rơi xuống người Mật Trùng.
Khoảnh khắc bị vầng sáng kia bao quanh, nét buồn thoáng hiện trên gương mặt nàng, đôi môi đỏ vừa hé mở phô hàm răng trắng thì cả Mật Trùng lẫn vầng sáng cùng tan biến.
Một thứ rơi la đà rồi chậm rãi đáp xuống trong vùng sáng của ngọn đèn lồng dưới đất. Seimei tiến lại nhặt lên xem. Một đóa tử đằng.
“Xin nhờ cả vào các vị.” Kẻ trên cổng thốt ra, rồi im bặt.
Trong đêm tĩnh mịch giờ chỉ còn lại màn sương mong manh như tơ bay lất phất. Seimei đưa tay phải trắng ngần lên, áp đóa tử đằng đang cầm vào đôi môi hồng của mình. Trên đôi môi ấy là nụ cười lặng lẽ.
Tối hôm sau.
Có bốn người dưới cổng La Thành.
Từng hạt mưa mỏng sắc như kim khâu rơi xuống từ màn trời mờ tối.
Seimei, Hiromasa và một nam một nữ nữa đứng trong mưa.
Người nam là một cấm vệ tên Kashima no Takatsugu. Hông đeo trường kiếm, tay trái mang cung, tay phải cầm vài mũi tên. Khoảng hai năm trước, người đàn ông gan dạ này đã dùng bộ cung tên kia bắn chết một con mèo tinh xuất hiện trong cung.
Còn người nữ chính là Tamakusa. Nàng là một cô gái xinh đẹp với đôi mắt to và sống mũi vừa cao vừa thẳng. Tuổi khoảng mười tám, mười chín.
Seimei ăn bận giống hệt đêm trước, chỉ là không đem rượu theo.
Trang phục của Hiromasa cũng chẳng thay đổi gì, chỉ là không mang cung với tên.
Trên đầu họ là tiếng tỳ bà du dương. Bốn người yên lặng lắng tai nghe.
Một lát sau, tiếng đàn ngưng bặt.
“Ta chờ các vị đã lâu.” Giọng nói từ trên cao vọng xuống. Vẫn là giọng nói hôm qua, nhưng lần này đã mang chút âm hưởng vui mừng không che giấu.
“Chúng ta đã làm theo lời hứa.” Hiromasa nói.
“Có một người đàn ông mới vào thay nhỉ.”
“Đại sư Semimaru không đến. Chúng ta vẫn tuân thủ giao kèo, chỉ là không biết ý ngươi thế nào, bèn mời vị khác cùng đi.”
“Ra thế.”
“Vậy nếu chúng ta giao ra cô gái thì có thể nhận lại tỳ bà chưa?”
“Đưa nàng lên đây trước đã.” Kẻ kia đáp.
Từ trên lầu, một sợi dây nhanh chóng thòng xuống.
“Để nàng bám vào sợi dây. Sau khi kéo lên và xác nhận không có nhầm lẫn, ta sẽ thả cây tỳ bà xuống.” Kẻ kia nói thêm.
“Được.”
Hiromasa tiến lên cùng cô gái và tóm sợi dây cho nàng.
Cô gái vừa cầm vào, sợi dây liền thoăn thoắt thu lại, trong khoảnh khắc nàng đã lên đến đầu cổng rồi mất dạng.
Không lâu sau, một tiếng “Ôi…” vang lên.
“Suurya ơi!” Giọng nói run rẩy vì vui sướng. “Chính là nàng.”
Lát sau, từ trên cao một vật đen sì buộc dây được thả xuống. Hiromasa cởi dây.
“Là Huyền Tượng!”
Y mang cây tỳ bà làm bằng gỗ tử đàn lui về chỗ hai người còn lại, đưa cho Seimei xem.
Đúng lúc ấy…
Một âm thanh ghê rợn vang lên trên cổng La Thành. Là tiếng gào rú đầy căm phẫn, tràn ngập đau đớn của loài dã thú.
“Các ngươi lừa ta!” Dã thú rú rít.
Loáng thoáng có âm thanh trầm đục. Liền đó là tiếng phụ nữ kêu la thảm thiết đến rợn người. Rồi đột ngột tắt lịm.
Thay vào đó là tiếng lép nhép, tựa như tiếng nước rỉ ra từ thau gỗ nhỏ. Rơi tí tách xuống mặt đất. Mùi tanh nồng ẩm ướt lan tỏa trong màn đêm.
“Tamakusa!”
Seimei, Hiromasa và Takatsugu đồng thanh thốt lên, cùng tức tốc chạy đến chân cổng thành. Ở đó họ thấy một vũng nước đen ngòm. Rọi đèn vào, quả nhiên là một vũng máu tươi.
Rốp, rốp…
Nhoàm, nhoàm…
Âm thanh sởn gai ốc từ trên đầu vọng đến.
“Độp” một tiếng nặng nề. Có thứ gì vừa rơi xuống.
Đó là hai cẳng tay phụ nữ trắng bệch, bê bết máu, đã cụt mất cổ tay.
“Hỏng rồi!” Takatsugu hét.
“Sao đấy?” Hiromasa nắm lấy vai Takatsugu.
“Tamakusa đã thất bại.”
“Thất bại gì!?”
“Tôi bảo con bé dùng thanh đoản kiếm chứa linh khí của đại sư trên núi Hiei để chém đầu con yêu quái, nhưng việc không thành rồi.” Takatsugu vừa nói vừa lắp tên vào cung. “Tamakusa là em gái tôi. Việc này là chủ ý của hai chúng tôi. Nếu em gái của Takatsugu này chấp nhận để yêu quái xâm hại thì sẽ biến thành nỗi nhục cho hậu thế…”
“Gì cơ!?”
Hiromasa vừa cất lời thì thấy một vầng sáng xanh mờ ảo từ cổng La Thành phóng lên nền trời tối tăm.
Takatsugu kéo căng cung, nhắm bắn thẳng vào giữa vầng sáng.
Gào, cùng âm thanh như tiếng chó rú, vầng sáng kia rơi xuống đất.
Chỗ vầng sáng vừa rơi xuống có một người đàn ông trần truồng, tướng mạo kì dị đang đứng dậy.
Nước da đen đúa, sống mũi cao. Vóc người lẻo khoẻo, lồng ngực lép xẹp nổi rõ khung xương sườn. Nó quắc đôi mắt lóe sáng về phía ba người. Hai bên mép rách toạc, để lộ cặp nanh nhọn hoắt. Trên miệng còn ngoạm cổ tay phụ nữ. Quanh miệng đỏ lòm máu của chính nó lẫn máu cô gái.
Từ thắt lưng nó trở xuống phủ đầy lông thú. Chân cũng là chân thú. Dương vật nhô khỏi đám lông chĩa thẳng lên. Mũi tên cắm sâu trên trán nhô ra như sừng.
Quả nhiên là quỷ.
Trên mặt nó chảy xuống hai hàng huyết lệ.
“Ực” một tiếng, con quỷ nuốt trọn cổ tay đang ngoạm trên miệng. Nó nhìn cả ba người bằng cặp mắt tràn đầy oán hận và buồn bã.
Takatsugu lại giương cung. Một mũi tên nữa cắm vào trán con quỷ.
“Đừng!”
Seimei hét lớn, cùng lúc con quỷ vọt lên.
Takatsugu toan bắn mũi tiếp theo, nhưng con quỷ đã nhảy bổ tới, nhe nanh cắn xé cổ họng gã. Takatsugu đổ vật ra đất, mũi tên vút lên trời. Con quỷ tiếp tục nhìn hai người còn lại với ánh mắt bi thương.
Hiromasa tuốt phắt thanh kiếm đeo bên hông ra.
“Đứng im, Hiromasa!” Con quỷ ra lệnh.
“Đứng im, Masanari!” Nó cũng hướng sang Seimei, hô to.
Hiromasa giữ nguyên tư thế rút kiếm, tứ chi bất động.
“Thật đau lòng…” Con quỷ thì thầm, giọng thê lương. Phụt, đốm lửa màu xanh lục bay ra từ miệng nó. “Đau lòng, đau lòng quá đi…”
Cứ mỗi lần con quỷ lầm bầm, một đốm lửa xanh lập lòe lại từ miệng nó nhảy phốc vào đêm đen.
Mồ hôi rịn trên trán Hiromasa. Tay phải cầm kiếm, tay trái ôm Huyền Tượng, y cố gắng cử động mà không thể.
“Ta sẽ chén thịt các ngươi, sau đó mang Huyền Tượng cao chạy xa bay.”
Con quỷ vừa nói, Seimei liền cất tiếng, “Thịt này không ăn được đâu.”
Chàng hé môi cười điềm tĩnh, thản nhiên tiến lên nhấc lấy thanh kiếm từ tay Hiromasa.
“Ngươi lừa ta, Masanari!” Con quỷ hét lên.
Seimei chỉ cười không đáp. Bởi cho dù bị gọi bằng tên giả nhưng chỉ cần đáp lời, chàng sẽ trúng chú thuật của nó ngay. Tối qua, Hiromasa đã nói tên thật, lại đáp trả khi bị gọi nên trúng thuật mất rồi. Còn cái tên Seimei cho nó chỉ là giả.
Con quỷ run sợ, lông tóc dựng ngược.
“Đứng im, Kandata!” Seimei hô một tiếng.
Con quỷ lập tức đứng sững như trời trồng, lông tóc vẫn dựng ngược.
Không cần tốn sức, Seimei vung kiếm đâm thẳng vào bụng Kandata, xoáy mạnh. Máu tuôn xối xả. Từ trong bụng Kandata, Seimei moi ra một khối thịt be bét máu.
Một cái đầu chó còn sống.
Con chó nghiến nanh ken két, toan đớp Seimei.
“Quả nhiên là chó.” Seimei lẩm bẩm. “Đây chính là hình dạng thật của con quỷ. Chắc hẳn hồn ma Kandata đã tìm thấy một con chó mới chết ở đâu đó rồi nhập vào nó.”
Chàng chưa nói hết câu, thân xác bất động của Kandata đã bắt đầu thay đổi.
Mặt mũi biến dạng, lông mọc dài ra. Chỗ lúc trước là khuôn mặt giờ biến thành mông chó. Trên đó còn cắm hai mũi tên.
Bỗng nhiên Hiromasa cử động lại được.
“Seimei!” Hiromasa lớn tiếng gọi, giọng run rẩy.
Xác con chó lúc này đã khô đét, đổ vật xuống nơi Kandata vừa đứng. Chỉ còn mỗi cái đầu chó đẫm máu trong tay Seimei là đang cựa quậy.
“Huyền Tượng…”
Seimei vừa mở lời, Hiromasa đã lập tức ôm đàn đến.
“Để nó nhập vào cây tỳ bà vô hồn này là hay nhất.”
Seimei giữ cái đầu chó bằng tay phải, tay trái dứ dứ trước mặt nó.
Phập, cái đầu chó táp luôn bàn tay. Seimei lập tức buông tay phải khỏi đầu chó, chuyển sang bịt mắt nó. Tuy nhiên cái đầu chó khăng khăng cắn chặt tay trái của Seimei, không hề rơi xuống.
“Đặt Huyền Tượng xuống đất cho tôi.” Seimei nói.
Hiromasa làm theo lời chàng.
Seimei ngồi xổm xuống, đặt cái đầu chó đang ngoạm tay trái của mình lên cây Huyền Tượng. Bàn tay bị chó cắn chảy máu ròng ròng.
Seimei tỉ mỉ nhìn xuống cái đầu chó.
“Này, nghe ta…” Chàng dịu dàng nói với nó. “Thanh âm của cây tỳ bà kia thật hay…” Seimei thì thầm.
Đoạn, chàng từ từ bỏ tay phải đang bịt mắt con chó ra. Mắt nó đã nhắm nghiền. Seimei rút tay trái ra khỏi miệng con chó. Máu vẫn chảy đầm đìa.
“Seimei…” Hiromasa gọi.
“Kandata đã nhập vào Huyền Tượng rồi đấy.”
“Cậu đã niệm chú à?”
“Ừ.” Seimei thấp giọng trả lời.
“Bằng những lời vừa nãy ư…”
“Anh không biết à, Hiromasa, chẳng có câu chú nào linh nghiệm bằng lời nói dịu dàng cả. Nếu đối phương là nữ giới thì còn hữu hiệu hơn cơ…”
Seimei giải thích với nụ cười tủm tỉm trên môi.
Hiromasa nhìn chằm chằm vào mặt chàng.
“Cậu quả là một người kì lạ.” Y nói.
Cái đầu chó nằm trên cây Huyền Tượng đã hóa thành xương khô tự bao giờ.
Một cái sọ chó cũ kĩ, ố vàng.
Cây Huyền Tượng này có linh tính như người sống. Nếu gặp người vụng đàn hay bị đưa tới nơi ô uế, nó sẽ cả giận mà không kêu. Mọi cảm xúc nó biểu hiện đều dễ dàng cảm nhận được. Có lần cả cấm cung bị thiêu rụi, không ai kịp mang đàn ra, nhưng Huyền Tượng tự dưng xuất hiện trong vườn.
Những sự kì quái này nhiều không kể xiết, vẫn còn lưu truyền tới ngày nay.
- Kim tích vật ngữ quyển 24, chương 24
(Quỷ trộm tỳ bà)