CHƯƠNG 01
KHÔNG CÓ GÌ MỚI TRONG GIAO DỊCH CẢ

 

 

Nihil sub sole
(không có gì mới dưới ánh Mặt Trời)

- Truyền đạo 1:9-

 

 

Hãy để tôi bắt đầu với một quyển sách mà tôi đã từng đọc, rất nhiều, rất nhiều lần, và nó là quyển sách gối đu giường của giới tài chính, được Albert giới thiệu khi chúng tôi đang ngồi, hồn nhiên và đang trông đợi vào một buổi sáng đầu tiên, tay ôm chặt quyển sách này.

Quyển sách mà tôi muốn nói ở đây có tên là “Hồi ức của một thiên tài đầu tư chứng khoán” (Reminiscences of a Stock Operator) của tác giả Edwin Lefevre, xuất bản vào năm 1923. Đây là quyển tự truyện từ một trong những nhà giao dịch vĩ đại của quá khứ, Jesse Livermore, và vẫn còn giá trị cho đến ngày nay. Trong đó, có một câu nói gây ấn tượng đối với tôi: “Không có gì mới tại phố Wall cả. Không thể có gì mới bởi vì đầu cơ là một công việc rất xưa cũ rồi. Mọi thứ xảy ra trên thị trường chứng khoán hôm nay đều đã tồn tại trong quá khứ và sẽ tiếp tục xảy ra ở tương lai.” Về bản chất, câu nói này có liên quan mật thiết đến kỹ thuật giao dịch Phân tích Giá cả kết hợp Khối lượng (Volume Spread Analysis - sau đây được gọi là VPA xuyên suốt quyển sách). Nếu bạn đang mong đợi sẽ có cách tiếp cận giao dịch mới và thú vị, có lẽ bạn sẽ thất vọng đấy. Quan điểm về VPA đã ăn sâu vào thị trường tài chính, nhưng tôi lại thấy thật kỳ lạ khi có rất ít nhà giao dịch chấp nhận logic của những gì chúng ta đang thấy hàng ngày.

Nó là một kỹ thuật đã có hơn 100 năm, là viên gạch đầu tiên xây nên những thành công và giàu có của nhiều nhà giao dịch lỗi lạc và là một phương pháp mang tính biểu tượng.

hiện tại, bạn nên tự đt cho mình ba nghi vấn sau về thị trường:

  1. Ngày nay, khối lượng giao dịch có còn hữu ích?
  2. Nó có hữu ích đối với thị trường bạn đang giao dịch không?
  3. Nó có thể ứng dụng cho mọi chiến lược giao dịch và đầu tư không?

Tôi sẽ cố gắng trả lời câu hỏi đầu tiên bằng câu trích dẫn của David Penn, một cây bút của tạp chí Stocks and Commodities, đã viết về Wyckoff4 trong một bài báo vào năm 2002 như sau “Nhiều nguyên lý cơ bản của Wyckoff đã trở thành tiêu chuẩn thực tế của phân tích kỹ thuật: chẳng hạn như các khái niệm về tích lũy/phân phối và tính ưu việt của phân tích giá và khối lượng trong việc xác định hướng di chuyển giá cổ phiếu."

Đối với câu hỏi thứ hai, tôi chỉ có thể trả lời dưới góc độ cá nhân. Tôi bắt đầu sự nghiệp giao dịch của mình trên thị trường giao dịch hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán5. Từ đó tôi chuyển sang đầu tư trên thị trường cổ phiếu, đầu cơ trên thị trường hàng hóa và cuối cùng giao dịch trên thị trường tiền tệ giao ngay và hợp đồng tương lai. Khi giao dịch trên những thị trường vừa kể, thậm chí là thị trường tiền tệ giao ngay, tôi đều sử dụng giá cả và khối lượng như một phương pháp phân tích chủ yếu và kể cả khối lượng giao dịch trên thị trường tiền tệ cũng có thể dùng được. Đây là một phương pháp phổ quát. Sau khi học, bạn sẽ có thể áp dụng phương pháp này cho bất kỳ khung thời gian nào và trên bất kỳ thị trường nào.

Cuối cùng, để có câu trả lời tốt nhất cho câu hỏi thứ ba: khối lượng giao dịch có thể ng dụng cho mọi chiến lược giao dịch và đầu tư không, tôi sẽ trích dẫn câu nói của Richard Wyckoff, người được xem là cha đẻ của phương pháp Phân tích Giá cả kết hợp Khối lượng (VPA). Ông Wyckoff đã viết trong quyển “Nghiên cứu về cách đọc dải băng giá” (Studies in Tape Reading) rằng “Khi đánh giá thị trường bằng chính các hành động của nó, thì bạn đều có thể dự báo được từ những biến động nhỏ trong nửa giờ tiếp theo đến những xu hướng kéo dài hai hoặc ba tuần tới. Các dấu hiệu cảnh báo đến từ giá, khối lượng giao dịch, các biến động, sự hỗ trợ và áp lực thị trường đều được phơi bày nhằm chuẩn bị cho một tín hiệu nào đó dù trong ngắn hạn hoặc dài hạn. Giống như là những giọt nước và đại dương đều có những thành phần giống nhau vậy".

Sự thật đơn giản chỉ như vậy thôi. Bất kể là bạn giao dịch trong ngày như một nhà đầu cơ cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ và thị trường vốn, hoặc bạn là một nhà giao dịch theo xu hướng, theo sóng, nhà giao dịch vị thế6 trên các thị trường này hoặc thậm chí là đầu tư dài hạn hơn nữa, thì những kỹ thuật mà bạn học được trong quyển sách này đã tồn tại cách đây 100 năm và vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày hôm nay. Chúng ta chỉ cần một biểu đồ gồm giá và khối lượng giao dịch là đủ.

Để có được kỹ thuật phân tích mạnh mẽ này, chúng ta phải cảm ơn những nhà giao dịch vĩ đại của thế kỷ trước, những người đã đặt nền móng cho cái mà ngày nay chúng ta gọi là phân tích kỹ thuật hiện đại. Những huyền thoại như ông Charles Dow, người sáng lập chỉ số Dow Jones, Lý thuyết Dow và Nhật báo Phố Wall (Wall Street Journal), và được coi là ông tổ của phân tích kỹ thuật.

Một trong những niềm tin cơ bản của ông Charles Dow là khối lượng xác nhận xu hướng giá. Ông cho rằng nếu giá vẫn tiếp tục di chuyển với khối lượng thấp, thì đằng sau ắt hẳn tồn tại nhiều lý do khác nhau. Ngược lại, nếu giá di chuyển kèm theo khối lượng cao hoặc tăng lên, thì theo ông, đây là một sự di chuyển bình thường. Nếu giá tiếp tục đi về một hướng, cùng với sự hỗ trợ từ khối lượng, đây là tín hiệu cho thấy xu hướng chỉ mới bắt đầu.

Từ nguyên tắc cơ bản nói trên, Charles Dow sau đó đã mở rộng và phát triển ý tưởng này thành ba giai đoạn chính yếu của một xu hướng, ông đã định nghĩa giai đoạn đầu tiên của một xu hướng tăng là ‘giai đoạn tích lũy’, điểm bắt đầu cho bất kỳ xu hướng nào mà thị trường chuẩn bị tăng cao hơn. Ông gọi giai đoạn thứ hai là “giai đoạn có sự tham gia của đám đông”, có thể được coi là giai đoạn tiếp diễn xu hướng về mặt kỹ thuật. Đây thường là giai đoạn dài nhất trong ba giai đoạn. Cuối cùng, ông xác định giai đoạn thứ ba và đặt tên là “giai đoạn phân phối”. Tại đây, rất nhiều nhà đầu tư đổ xô vào thị trường với nỗi sợ bỏ lỡ cơ hội vàng của đà tăng giá.

Trong khi đám đông đang hào hứng mua bằng mọi giá thì có một chủ thể mà Charles Dow gọi là “dòng tiền thông minh” lại làm điều hoàn toàn ngược lại - ra sức bán tháo. Dòng tiền thông minh tiến hành chốt lời và trao lại cổ phiếu cho đám đông đang khao khát mua vào. Và tất cả hoạt động mua bán này đều có thể được quan sát qua lăng kính khối lượng. Bn thân Charles Dow chưa bao giờ xuất bản bất kỳ công trình chính thức nào về cách tiếp cận giao dịch và đầu tư của mình, nhưng ông thích đăng những suy nghĩ và ý tưởng của mình trên Nhật báo Phố Wall khi nó còn phôi thai. Chỉ sau khi ông qua đời vào năm 1902, tác phẩm của ông mới được đối chiếu và xuất bản lần đầu tiên bởi người bạn thân và đồng nghiệp Sam Nelson, và sau đó là William Hamilton.

Quyển sách xuất bản năm 1903, có tựa đề Cơ bản về đầu cơ chứng khoán (The ABC of Stock Speculation) là quyển sách đầu tiên sử dụng thuật ngữ ‘Lý thuyết Dow’ như một thành tựu vĩ đại gắn liền với tên tuổi của người đàn ông.

Trong khi khối lượng là một trong những nguyên lý trung tâm trong cách tiếp cận thị trường của ông, từ đó xác thực hành động giá liên quan, thì nó cũng đánh dấu sự phát triển ý tưởng về xu hướng, đây cũng là động cơ thúc đẩy Charles Dow nghiên cứu lý thuyết của mình. Ngoài ra, khái niệm chỉ số ra đời giúp nhà đầu tư có cái nhìn khác về các nguyên tắc cơ bản của hành vi thị trường để xác nhận giá cả. Đây là lý do ông phát triển các chỉ số cho thị trường, như chỉ số Vận tải Dow Jones (Dow Jones Transportation Index), để so sánh với “những ngành công nghiệp liên quan”, từ đó đưa ra góc nhìn sâu rộng về toàn bộ nền kinh tế.

Xét cho cùng, nếu nền kinh tế vùng mạnh, thì điều này sẽ được phn ánh trong hiệu suất hoạt động của các công ty trong các lĩnh vực khác nhau trên thị trường.

Nếu Charles Dow là ông tổ của phân tích kỹ thuật, thì người sống cùng thời với ông, Richard Wyckoff có thể được coi là cha đẻ của phương pháp phân tích khối lượng và giá cả, và là người đã tạo ra nền tảng của phương pháp mà chúng ta sử dụng ngày nay. Wyckoff là người cùng thời với Dow, và bắt đầu làm việc tại Phố Wall với tư cách là một nhân viên kinh doanh chứng khoán khi mới 15 tuổi vào năm 1888, cùng thời điểm Dow ra mắt ấn bn đầu tiên của Nht Báo Phố Wall. Đến năm 25 tuổi, ông đã kiếm đủ tiền từ việc giao dịch để mở văn phòng môi giới của riêng mình. Điều khá bất ngờ, mục tiêu chính của ông không phải là kiếm tiền cho bn thân (điều ông đã làm), mà là trở thành một nhà đào tạo và cung cấp nguồn thông tin khách quan cho nhà đầu tư nhỏ lẻ. Đây là một nguyên tắc suốt đời của ông, và không giống như Charles Dow, Wyckoff là một nhà văn và nhà xuất bản với rất nhiều tác phẩm để đời.

Tác phẩm nổi tiếng của ông, Phương pháp giao dịch và đầu tư vào cổ phiếu của Richard Wyckoff (The Richard Wyckoff Method of Trading and Investing in Stocks), được xuất bn lần đầu tiên vào đầu những năm 1930, như một khóa học nghiên cứu tại nhà, và vẫn còn nguyên giá trị mà các ngân hàng đầu tư trên Phố Wall vẫn còn sử dụng cho đến ngày hôm nay.

Về cơ bản, quyển sách này là một khóa học hướng dẫn, và mặc dù khá khó tìm, nhưng bạn vẫn có thể mua được một phiên bản bìa cng ở những hiệu sách cũ.

Trong suốt cuộc đời của mình, Wyckoff luôn quan tâm đến việc đảm bảo rằng nhà đầu tư tự định hướng và đưa ra cho mình góc nhìn sâu sắc về cách thị trường thực sự vận hành như thế nào, và vào năm 1907 ông đã cho ra mắt một tạp chí phát hành mỗi tháng cực kỳ thành công có tên The Ticker, sau đó được sáp nhập vào Tạp chí Phố Wall và được nhiều người biết đến hơn.

Một trong nhiều lý do tạo nên sự thành công này là quan điểm của ông về thị trường và hành vi của thị trường. Đầu tiên, ông tin chắc rằng để thành công, bạn cần phải làm chủ được phân tích kỹ thuật và bỏ qua quan điểm của những người “được gọi là” các chuyên gia và các phương tiện truyền thông tài chính. Thứ hai, ông tin rằng cách tiếp cận này là một nghệ thuật chứ không phải khoa học.

Thông điệp mà Wyckoff chuyển tới độc giả và những người đã tham dự các khóa học và hội thảo của ông là một thông điệp đơn giản. Qua nhiều năm nghiên cứu thị trường và làm việc tại Phố Wall, ông tin rằng giá cả vận động theo nguyên tắc kinh tế cơ bản là cung và cầu, và bằng cách quan sát mối quan hệ khối lượng - giá, chúng ta có thể dự báo hướng thị trường trong tương lai.

Giống như Charles Dow và Jesse Livermore, những người mà Wyckoff phỏng vấn nhiều lần và sau đó được các bài báo xuất bản trên Nhật Báo Phố Wall. Tất cả những người vĩ đại này trong quá khứ, một điểm chung: đều sử dụng dải băng giá như nguồn cảm hứng của họ, và nó đã tiết lộ nhiều thứ, trong đó có các quy luật cơ bản của cung và cầu với giá cả, khối lượng, thời gian và xu hướng từ dữ liệu mà nó hiển thị.

Từ công việc của mình, Wyckoff đã nêu chi tiết ba quy luật cơ bản sau.

1. Quy luật Cung và cu

(The Law of Supply and Demand)

Đây là quy luật cơ bản và đầu tiên được đúc kết từ kinh nghiệm của ông với tư cách là một nhà môi giới có kiến thức chuyên sâu về cách thị trường phản ứng như thế nào với cuộc chiến hành động giá đang giằng co giữa phe mua và phe bán, từng phút và từng giây. Khi cầu lớn hơn cung, thì giá sẽ tăng để đáp ứng nhu cầu này, và ngược lại khi cung lớn hơn cu thì giá sẽ giảm, kết quả là cung thừa sẽ bị hấp thụ.

Hãy lấy ví dụ về đợt khuyến mãi giảm giá vào mùa đông. Giá gim và phe mua đến để hấp thụ lượng cung đang thừa.

2. Quy luật Nguyên nhân và Kết quả

(The Law of Cause and Effect)

Quy luật thứ hai nói rằng để có một kết quả, trước tiên bạn phải có một nguyên nhân, và hơn nữa, nguyên nhân nào thì kết quả đó. Nói một cách khác, khối lượng giao dịch thấp sẽ chỉ dẫn đến một chuyển động nhỏ trong hành động giá. Quy luật này áp dụng cho nhiều thanh giá và xác định được mức độ của bất kỳ xu hướng tiếp theo nào. Nếu nguyên nhân lớn, kết quả cũng sẽ lớn. Nếu nguyên nhân nhỏ, kết quả cũng nhỏ theo.

Ví dụ đơn giản và tương đồng nhất lờ sóng biển. Một con sóng lớn đập vào một con tàu sẽ làm cho con tàu chao đo dữ dội, ngược lại con sóng nhỏ sẽ chỉ làm con tàu dập dìu hoặc thậm chí không gây ra ảnh hưởng gì cả.

3. Quy luật Nỗ lực và Kết quả

(The Law of Effort and Result)

Đây là quy luật thứ ba của Wyckoff tương tự như định luật vt lý thứ ba của Newton. Mọi hành động đều có sự phản hành động tương ứng ở chiều ngược lại. Nói cách khác, hành động giá trên biểu đồ phải phản ánh hành động khối lượng bên dưới. C hai phải luôn hòa hợp với nhau, với nỗ lực (là khối lượng) sẽ dẫn đến kết quả tương ứng (hành động giá). Theo lời Wyckoff đã dạy, chúng ta sẽ bắt đầu phân tích từng thanh giá bằng cách tiếp cận như bên ngành pháp y, để đánh giá xem liệu thị trường có đang diễn biến theo quy luật này hay không. Nếu có thì thị trường đang diễn biến bình thường và chúng ta có thể tiếp tục thực hiện phân tích thanh giá tiếp theo. Nếu không, tức là có sự bất thường, thì chúng ta cần phải khám phá lý do tại sao, cũng giống như điều tra viên tìm manh mối tại hiện trường vụ án.

The Ticker mô tả lại cách tiếp cận giao dịch của Wyckoff một cách hoàn hảo. Trong suốt hai mươi năm nghiên cứu thị trường và nói chuyện với các nhà giao dịch vĩ đại khác như Jesse Livermore và J.P.Morgan, ông đã trở thành một trong những người đi đầu trong lĩnh vực đọc dải băng giá, và từ đó hình thành nên cơ sở cho phương pháp và cách phân tích của ông. Năm 1910, ông viết quyển sách vẫn được coi là có uy tín nhất về đọc dải băng giá có tựa đề “Nghiên cứu về cách đọc dải băng giá” (Studies in Tape Reading), ông không xuất bản dưới tên của mình mà sử dụng bút danh Rollo Tape.

Livermore cũng là một người giỏi đọc băng giá, và là một trong những huyền thoại mọi thời đại của Phố Wall.

Ông bắt đầu sự nghiệp giao dịch của mình khi mới 15 tuổi với vai trò là một cậu bé đng tại bảng niêm yết giá và ghi giá mới nhất từ dải băng giá cổ phiếu được in ra. Sau đó, những thứ này được dán lên bảng trong văn phòng môi giới của công ty Paine và Webber nơi ông làm việc. Trong khi thực hiện công việc nhàm chán này, chàng trai trẻ Jesse đã sớm nhận ra rằng dòng giá liên tục, cùng với các lệnh mua và bán thực sự đang hé lộ một điều gì đó. Dải băng giá dường như đang trò chuyện với ông, và tiết lộ những bí mật sâu thẳm nhất bên trong thị trường này. Ông bắt đầu nhận thấy rằng khi giá cổ phiếu hành xử theo một cách nhất định với hành động mua và bán của đám đông, thì giá sẽ di chuyển đáng kể. Với kiến thức sâu về đọc dải băng giá, Livermore rời văn phòng môi giới và bắt đầu giao dịch toàn thời gian. Trong vòng 2 năm, ông đã biến $1.000 thành $20.000, một số tiền khổng lồ vào thời điểm đó, và đến năm 21 tuổi, con số này đã lên đến 200.000 đô la, từ đó ông có biệt danh là ‘Boy Plunger’ (tạm dịch: Cu bé Liều lĩnh).

Từ thị trường cổ phiếu, ông chuyển sang giao dịch trên thị trường hàng hóa, nơi đem lại cho ông những khoản tiền thậm chí còn lớn hơn, và mặc dù giá đi như tàu lượn siêu tốc, ông kiếm được và mất đi vài triệu đô la, nhưng danh tiếng của ông đã đi vào lịch sửvới hai thương vụ bán khống trong hai đợt sụp đổ thị trường. Lần đầu tiên là vào năm 1907, ông đã kiếm được hơn 3 triệu đô la. Tuy nhiên, thành quả này chưa lớn bằng đợt sụp đổ của Phố Wall vào năm 1929, theo những ước tính có phần khiêm tốn, ông đã kiếm được khoảng 100 triệu đô là Mỹ. Trong khi những người khác suy sụp và mất tất cả, thì Jesse Livermore lại làm ăn phát đạt, và vào thời điểm đó, ông bị báo chí lên án và trở thành tâm điểm công kích của họ. Điều này không có gì ngạc nhiên cả.

Vợ của Livermore cứ ngỡ rằng họ sẽ một lần nữa mất hết tất cả, nên đã dọn hết tất cả đồ đạc, trang sức trong căn nhà 23 phòng ngủ của họ vì lo sợ sẽ có người đến siết nợ đến bất cứ lúc nào. Đến khi từ văn phòng trở về nhà vào buổi tối ngày hôm đó, ông bình tĩnh và dõng dạc tuyên bố với vợ rằng đây là ngày giao dịch thành công nhất trong sự nghiệp của ông từ trước đến nay.

Đối với những huyền thoại này, thì dải băng giá chính là cửa nhìn ra thế giới thị trường tài chính của họ. Bản thân Wyckoff đã gọi dải băng giá là một “phương pháp dự báo từ những gì xuất hiện trên dải băng hiện tại, có khả năng xảy ra trong tương lai".

Sau này, ông có nói thêm trong quyển “Nghiên cứu về cách đọc dải băng giá” (Studies in Tape Reading) như sau:

Việc đọc dải băng giá giống như theo dõi con ngựa đua chạy rất nhanh. Mục tiêu là xem cổ phiếu đang tích lũy hay phân phối, đang tăng hay đang giảm, hay tổ chức lớn chú ý đến chưa. Người đọc dải băng giá đặt mục tiêu giảm thiểu rủi ro từ mỗi giao dịch thành công - vì thị trường giống như một tấm kính vạn hoa, luôn luôn thay đổi. Để nắm bắt tình huống mới, buộc nó phải nhanh như chớp, bằng cơ chế tư duy của bộ não đưa ra quyết định giao dịch một cách nhạy bén và chính xác. Việc đọc dải băng đo lường cung và cầu tức thời đổi với cổ phiếu cụ thể và toàn thị trường, so sánh phe mua/phe bán đằng sau mỗi cổ phiếu cũng như mối quan hệ của họ với nhau và với tất cả chủ thể khác.

Người đọc dải băng giá giống như người quản lý của một cửa hàng bách hóa; trong văn phòng của anh ta có hàng trăm báo cáo về doanh số bán hàng của các bộ phận khác nhau. Anh ta sẽ lưu ý đến xu hướng kinh doanh chung - cho dù nhu cầu của toàn bộ cửa hàng đang nhiều hay ít, anh sẽ đặc biệt chú ý đến các ngành hàng mà nhu cầu mạnh hoặc yếu bất thường. Khi nhận thấy bộ phận nào đó đang gặp khó khăn trong việc bán hàng, anh ta sẽ có những chính sách để người mua đặt hàng nhiều hơn; nhưng khi doanh số hàng hóa nào đó vẫn không có gì thay đổi, anh ta biết rằng nhu cầu (thị trường) cho loại hàng đó đang rất ít, vì thế, sẽ hạ giá xuống để khách hàng mua nhiều hơn.

Là một nhà giao dịch, chắc chắn đây là điều mà tất cả chúng ta cần phải biết.

Ban đầu mã Morse được phát triển vào giữa những năm 1860 như một hệ thống điện tín để liên lạc, và công nghệ này đã được điều chỉnh để cung cấp một hệ thống thông tin về giá cổ phiếu và luồng lệnh7 (order flow).

Sau đó, người ta sử dụng một băng giấy hẹp đục lỗ các con số trong suốt ngày giao dịch. Dưới đây là những công cụ ngày xưa mà các nhà giao dịch vĩ đại này sử dụng để tạo nên sự thịnh vượng của họ.

Có lẽ khó tin, nhưng những gì xuất hiện ở đây hầu như là tất cả những gì bạn cần biết với tư cách là một nhà giao dịch muốn trở nên thành công khi bạn đã hiểu về mối quan hệ giữa khối lượng, giá cả, xu hướng và thời gian.

 

Image

 

Hình 1.10 Ví dụ về một dải băng giá

 

Hình 1.10 là hình ảnh có tên Public Domain (một dải băng giá mà mọi người đều có thể nhận được) được trích từ tác phẩm Work of Wall Street của tác giả Serene S. Pratt (1909) - cung cp bởi HathiTrust www://www.hathitrust.org/.

Đây chính xác là những gì Charles Dow, Jesse Livermore, Richard Wyckoff, J.P.Morgan và các nhà giao dịch huyền thoại khác quan sát hàng ngày trong văn phòng của họ.

Dải băng giá cổ phiếu, liên tục cung cấp những thông điệp về giá cả và phản ứng của thị trường đối với hoạt động mua và bán, cung và cầu.

Tất cả những thông tin tại các sàn giao dịch đều được nhập bằng tay, và sau đó đưa lên các máy ghi giá (ticker tape machines) ở từng văn phòng môi giới. Một mã vắn tắt đã được phát triển trong nhiều năm, để cố gắng giữ cho các chi tiết ngắn gọn nht có thể, nhưng vẫn truyền đạt tất cả các thông tin chi tiết cần thiết.

Hình 1.11 có lẽ là ví dụ nổi tiếng nhất, cũng có thể là thảm họa nhất về đoạn băng giá cổ phiếu, từ sáng ngày 29 tháng 10 năm 1929, thời điểm bắt đầu sự sụp đổ của Phố Wall.

Hình 1.11 được cung cấp từ các nguồn của Bảo tàng Tài chính Hoa Kỳ, nơi bạn có thể xem bản gốc.

 

Image
Hình 1.11 Đoạn băng giá khi Phố Wall sụp đổ

 

dòng trên cùng là mã chứng khoán, với các công ty như Goodyear Tire (GT), United States Steel (X), Radio Corporation (R) và Westinghouse Electric (WX), với ký hiệu PR bên cạnh để hiển thị loại cổ phiếu được bán không phải là cổ phiếu Phổ thông (Common stock), mà là cổ phiếu ưu đãi (Preferred stock).

Dòng thứ hai bên dưới in tất cả giá cả và khối lượng giao dịch dưới dạng vắn tắt để có thể đẩy nhanh hơn tốc độ cập nhật giá. Ký tự ‘S’ thường được sử dụng để ngăn cách giá niêm yết và số lượng cổ phiếu được giao dịch, nó cũng có nghĩa là dấu chấm trong dải băng. Khi “SS” xuất hiện, thì điều này thể hiện số cổ phiếu được giao dịch theo lô lẻ, thường là dưới 100 cổ phiếu. Cuối cùng, chữ số 0 thường không được in vào, cũng là để rút ngắn thời gian. Chúng ta lấy ví dụ mã US Steel (X), có thể thấy dòng đầu tiên của dải băng giá là 10.000 cổ phiếu được giao dịch tại mức giá 185 3/4 và khi chúng ta di chuyển đến cuối dải băng, cổ phiếu được niêm yết ở mức 2.5 1/2. Nhưng cũng với một ngày như vậy, USD Steel giao dịch 200 cổ phiếu vẫn với giá 185, hoặc giảm xuống 175 hoặc thậm chí là 165, như nhiều cổ phiếu đang biến động khác.

Đây là dải băng báo giá mà tất cả các nhà giao dịch huyền thoại đều năm bát và hiểu biết rất sâu sắc. Khi họ đã học được ngôn ngữ của các mã cổ phiếu, dải băng chính là một quyển truyện kể lại toàn bộ nội dung chỉ đơn giản bằng giá và khối lượng giao dịch. Để phân tích dài hạn hơn, họ sẽ chuyển những thông điệp này thành biểu đồ.

Như vậy thì có gì thay đổi không? Câu trả lời thành thật nhất là: thực sự thì rất ít.

Ngày nay chúng ta may mắn vì có biểu đồ điện tử. Tất cả hành động giá và khối lượng đều được cập nhật từng giây, từng tick8, chỉ để chứng minh dải băng và tầm quan trọng của nó vẫn còn, nhưng đã được cập nhật sang một phiên bản hiện đại hơn. Điểm khác nhau ở đây chỉ là ngày nay sử dụng điện tử, trong quá khứ thì không, còn thông tin mà chúng truyền tải chẳng khác gì nhau cả.

 

Image

Hình 1.12 Dải băng giá hiển thị dưới dạng điện tử

 

Trông quen thuộc phải không? Chúng ta thấy được điều gì trong ví dụ đơn giản ở hình 1.12?

đây giá đã tăng từ 45.17 lên 45.30 được hỗ trợ bởi sự xuất hiện mạnh mẽ của khối lượng giao dịch. Điều chúng ta không biết ở giai đoạn này là thời gian giữa những lần thay đổi giá và khối lượng giao dịch hiện tại đang thấp, cao hay trung bình. Đây đều là yếu tố chính cần phải quan tâm.

Trong khi dải băng giá hiện tại và quá khứ trông giống nhau, nhưng sự khác biệt LỚN nhất ở đây là tính kịp thời của thông tin được hiển thị. Đối với những nhà giao dịch huyền thoại trong quá khứ, thật sự nể phục khi thấy rằng giá được cập nhật chm từ vài phút đến vài giờ nhưng họ vẫn rất thành công. Ngày nay, tất cả thông tin mà chúng ta nhìn thấy đều được hiển thị trực tiếp và cho dù là trên bng giá điện tử, biểu đồ điện tử hay trên dữ liệu giá cấp 1 và cấp 2, chúng ta đều có thể dễ dàng tiếp cận và so sánh chúng.

Cuối cùng, trong phần khái quát về phân tích khối lượng và giá này, tôi sẽ giới thiệu đến bạn một trong số những ‘ông lớn’ về giao dịch khác mà có lẽ bạn sẽ ít quen thuộc hơn. Di sản của ông rất khác so với những di sản của Dow, Livermore và Wyckoff, vì là người đầu tiên tiếp xúc với một nhóm mà ông gọi chung là ‘các chuyên gia’ (specialists), ‘những người trong cuộc/những người giao dịch nội bộ’ (insiders) và chúng ta sẽ gọi là các nhà tạo lập thị trường.

Richard Ney sinh năm 1916, sau khi lập nghiệp ở Hollywood đã chuyển sang tr thành nhà đầu tư, nhà giao dịch và tác gi nổi tiếng, người đã tiết lộ toàn bộ hoạt động bên trong của thị trường chứng khoán cũng như những thỏa thuận ngầm giữa các cơ quan quản lý, Chính phủ, các sàn giao dịch và các ngân hàng, vốn là các tổ chức có liên quan đến hoạt động nói trên, về khía cạnh trên thì ông Ney giống ông Wyckoff, và với tư cách là một nhà đào tạo, ông Ney định vị vai trò của mình là cố gắng giúp các nhà đầu tư nhỏ hiểu được cuộc chơi gian ln của những chủ thể bên trong thị trường.

Quyển sách đầu tiên của ông, The Wall Street Jungle, là quyển sách bán chạy nhất của New York Times vào năm 1970, và ông tiếp tục viết hai quyển khác, The Wall Street Gang và Making It In The Market. Tất cả đều có cùng một chủ đề cơ bản và mang đến cho bạn một hương vị riêng. Hãy để tôi trích dẫn lời của Thượng nghị sĩ Lee Metcalf về The Wall Street Gang:

“Trong một chương nói về SEC (ủy ban chứng khoán và sàn giao dịch Hoa Kỳ), ông Ney đã thể hiện sự hiểu biết của mình về các hoạt động bí hiểm của Sở giao dịch chứng khoán. Hoạt động được kiểm soát lợi ích của những người giao dịch nội bộ, những người nắm giữ thông tin đặc biệt và tác động đến lợi nhuận của tất cả các loại giao dịch, bất kể giá trị thực tế của cổ phiếu được giao dịch như thế nào. Nhà đầu tư là những người không nằm trong danh sách tham gia cuộc chơi này. Giá trị thực tế của những cổ phiếu niêm yết cũng không giúp ích gì. Cuộc chơi này thực chất có tên gọi là sự thao túng."

Hãy nhớ rằng, đây là một Thượng nghị sĩ tại thời điểm đó, đang bình luận về quyển sách này. Không có gì ngạc nhiên khi Richard Ney được coi là một nhà vô địch trong lòng dân chúng.

Sách của ông vẫn còn tồn tại và hữu dụng cho đến ngày nay. Tại sao? Bởi vì mọi thứ mà Richard Ney đã phơi bày trong các quyển sách của mình vẫn tiếp diễn cho đến hiện tại trên mọi thị trường. Tôi không viết về một thuyết âm mưu nào cả. Tôi chỉ đang đưa ra một thực tế về thế giới giao dịch. Mọi thị trường chúng ta giao dịch hoặc đầu tư đều bị thao túng theo cách này hay cách khác. Đó là bí mật của các nhà tạo lập thị trường trong thị trường chứng khoán, hay các ngân hàng trung ương trong thị trường ngoại hối, họ đều là những người can thiệp thường xuyên vào thị trường và trong một số trường hợp thậm chí còn công khai làm điều đó.

Tuy nhiên, có một hoạt động mà người trong cuộc không thể giấu: khối lượng giao dịch, và đó là lý do tại sao bạn cần phải đọc quyển sách này. Khối lượng giao dịch tiết lộ hoạt động trên thị trường. Khối lượng tiết lộ sự thật đằng sau hành động giá. Khối lượng xác nhận giá.

Hãy để tôi cung cấp cho bạn một trích dẫn cuối cùng trong quyển The Wall Street Gang mà tôi hy vọng sẽ đưa ra quan điểm cũng như dẫn dắt chúng ta một cách dễ dàng đến chương tiếp theo. Từ một chương có tựa đề “Việc Chuyên gia sử dụng công cụ Bán khống”, Richard Ney nói như sau:

Để hiểu cách làm của các chuyên gia, nhà đầu tư phải học cách tư duy của họ như là những thương gia muốn bán một lượng hàng tồn kho với mức giá bán lẻ. Khi đã bán sạch hàng tồn kho trên kệ, họ sẽ tìm cách tận dụng lợi nhuận của mình để mua thêm hàng hóa với mức giá bán buôn. Một khi nắm được khái niệm này, chúng ta đã sẵn sàng hiểu được tám quy luật sau:

  1. Giống như thương gia, các chuyên gia sẽ kỳ vọng bán ở mức giá bán lẻ những gì họ đã mua với mức giá bán buôn.
  2. Các chuyên gia ở lại trên thị trường càng lâu, họ sẽ tích lũy được càng nhiều tiền để mua cổ phiếu với giá bán buôn, sau đó bán với giá bán lẻ.
  3. Việc mở rộng triển khai các phương tiện truyền thông sẽ đưa nhiều người tham gia vào thị trường hơn, có xu hướng làm tăng sự biến động của giá cổ phiếu vì chúng làm tăng các yếu tố cung – cu,
  4. Để mua và bán số lượng lớn cổ phiếu, các thành viên của sở giao dịch sẽ tìm kiếm những cách thức mới để nâng cao kỹ thuật bán hàng của họ thông qua việc sử dụng các phương tiện thông tin đi chúng.
  5. Để sử dụng các nguồn lực tài chính ngày càng tăng, các chuyên gia sẽ phải tác động đến việc giảm giá theo các hướng ngày càng tăng để có đủ lượng hàng tồn.
  6. Sự tăng giá sẽ rất kịch tính và mạnh mẽ để thu hút sự quan tâm của công chúng nhằm phân phối lượng hàng tồn kho tích lũy.
  7. Các cổ phiếu được giao dịch sôi động nhất sẽ cần thời gian dài hơn để phân phối.
  8. Nền kinh tế sẽ bị suy thoái ngày càng nghiêm trọng, gây ra lạm phát, thất nghiệp, lãi suất cao và thiếu nguyên liệu.

Richard Ney đã viết như vậy và liên tục dự đoán chính xác các đỉnh và đáy thị trường trong suốt những năm 1960, 70 và 80. Ông Ney là cái gai trong mắt SEC, nhưng là nhà vô địch của giới đầu cơ và nhà đầu tư nhỏ lẻ.

Khối lượng giao dịch tiết lộ sự thật đằng sau những con số. Cho dù bạn giao dịch trên các thị trường bị thao túng như chứng khoán hoặc ngoại hối, hoặc những thị trường như hợp đồng tương lai nơi chúng ta giao dịch với các nhà tạo lập lớn (major operators), khối lượng đều thể hiện sự thao túng và luồng lệnh của họ một cách chi tiết.

Các nhà tạo lập thị trường chứng khoán không thể che giấu. Các ngân hàng lớn thiết lập tỷ giá hối đoái cho thị trường ngoại hối cũng không thể che giấu. Trong thị trường tương lai, là một thị trường thuần túy, khối lượng xác nhận giá cả và cho chúng ta bức tranh về cung và cu cùng với tâm lý thị trường và luồng lệnh thể hiện sự đi ra - đi vào của các nhà tạo lập.

Trong chương tiếp theo, chúng ta sẽ xem xét khối lượng chi tiết hơn, nhưng tôi sẽ bắt đầu với một bài báo tôi đã viết cho tạp chí Stocks and Commodities nhiều năm trước, và nó lặp lại tám quy luật của Richard Ney. Nó đã được viết rất lâu trước khi tôi biết Richard và các quyển sách của ông ấy, nhưng cả hai đều có sự tương đồng trong quan điểm về thị trường và tôi muốn đưa nó vào đây để củng cố thêm tầm quan trọng của khối lượng trong giao dịch của bạn. Tôi hy vọng sẽ truyền tải được thông điệp này, còn nếu bạn vẫn chưa tin, ‘câu chuyện ngụ ngôn’ sau đây có thể thuyết phục bạn. Tôi cũng mong là như vậy.