CHƯƠNG 07
GIẢI THÍCH VỀ KHÁNG CỰ VÀ HỖ TRỢ
Tiền bạc và thị trường có thể không bao giờ lãng quên, nhưng con người thì chắc chắn có. Và bạn cũng không khác gì ngay ở hiện tại, tương lai hoặc bất cứ thời điểm nào trong cuộc đời bạn.
- Kenneth L Fisher (1950-) -
Từ đầu quyển sách đến bây giờ, chúng ta đã dành hết mọi tập trung vào mối quan hệ ‘thuần túy’ giữa giá và khối lượng trong phân tích VPA.
Trong chương này, tôi sẽ giới thiệu kỹ thuật phân tích đầu tiên, cho chúng ta hiểu hơn về cách xác định vị trí giá trong xu hướng tổng thể bằng hành vi giá trên biểu đồ. Quan trọng hơn, khi kết hợp với VPA, kỹ thuật này cũng tiết lộ khi nào xu hướng sắp bắt đầu hoặc kết thúc, cũng như khi nào thị trường chuyển sang giai đoạn tắc nghẽn (đi ngang).
Bạn hãy tưởng tượng đến một tòa nhà, nếu khối lượng và giá cả được coi là nền móng, thì các kỹ thuật phân tích mà tôi giải thích trong những chương tiếp theo là tường, sàn, trần và mái nhà. Nói cách khác, chúng cung cấp một bộ khung hay khuôn mẫu để phân tích khối lượng và giá. Riêng VPA thôi thì cực kỳ mạnh mẽ rồi, nhưng nếu có những kỹ thuật này, bạn sẽ như hổ mọc thêm cánh.
Có lẽ một trong những khía cạnh gian nan nhất của giao dịch là quản lý và thoát khỏi bất kỳ vị thế nào đang nắm giữ. Như tôi đã nói trước đó, đặt lệnh thì dễ, chứ thoát lệnh thì rất khó, và đây là lúc những kỹ thuật này thể hiện vai trò ‘lập bản đồ’ cho hành động giá hoặc đóng từng cột mốc cho giá. Từ đó, chúng truyền tài những thông điệp về sự khởi đầu và kết thúc tiềm năng của xu hướng.
Sau đây, tôi sẽ bắt đầu nội dung này với kỹ thuật đầu tiên có tên là hỗ trợ và kháng cự. Một lần nữa, đây là một khái niệm mạnh mẽ có thể được áp dụng cho bất kỳ thị trường nào, bất kỳ công cụ nào và trong bất kỳ khung thời gian nào, vì vậy cho dù bạn đang sử dụng VPA với tư cách là nhà giao dịch trong ngày hay là nhà đầu tư dài hạn, thì hỗ trợ và kháng cự là một trong những các nguyên tắc chính của hành vi giá trên biểu đồ và là cốt lõi của phân tích kỹ thuật.
Tuy nhiên, điều trớ trêu của hỗ trợ và kháng cự là nó lại trái ngược hẳn với VPA. Phân tích giá theo khối lượng tập trung vào các khía cạnh ‘dẫn dắt’ của hành vi giá và cố gắng phân tích thị trường tiếp theo sẽ hướng tới đâu. Hỗ trợ và kháng cự lại có một vai trò hoàn toàn khác, vì nó tập trung vào những thứ trong quá khứ, cụ thể là lịch sử của hành vi giá, các khía cạnh ‘đã xảy ra’ của hành vi giá.
Bất chấp điều trớ trêu này, chính sự kết hợp của cả hai sẽ cho chúng ta một góc nhìn về vị trí hiện tại của thị trường trong bức tranh tổng thể. Nó cho chúng ta biết mức giá mà thị trường có thể tạm dừng, bứt phá hoặc đảo chiều, cả hiện tại và trong tương lai, cũng như tất cả các mức giá quan trọng để mở, quản lý và đóng các vị thế giao dịch.
Sau đây tôi tóm tắt lại những điều cơ bản về hành vi giá. Nói chung, thị trường chỉ có thể di chuyển theo một trong ba hướng: lên, xuống hoặc đi ngang. Nói cách khác, thị trường chỉ có thể có xu hướng tăng, giảm hoặc đi ngang trong một giai đoạn củng cố giá. Trong số ba trạng thái này, thị trường dành nhiều thời gian hơn để đi ngang (70% thời gian), hơn là tăng hoặc giảm (30% thời gian còn lại). Thị trường đi ngang với vô vàn loại lý do, nhưng chủ yếu rơi vào ba lý do sau.
Đầu tiên, thị trường đi ngang khi đang chờ đợi một tin tức quan trọng nào đó chuẩn bị công bố. Để chứng kiến điều này trong thực tế, bạn chỉ cần quan sát hành động giá diễn biến, thị trường có thể chỉ dao động trong một phạm vi hẹp trong vài giờ trước thời điểm tin ra.
Thứ hai, thị trường đi ngang trong cả giai đoạn cao trào bán và cao trào mua, khi những người giao dịch nội bộ đang ra sức lấp đầy hoặc dọn sạch kho hàng của họ.
Cuối cùng, thị trường đi ngang khi đi vào các vùng giá cũ, nơi các nhà giao dịch bị kẹt lại trong quá khứ. Cụ thể, khi thị trường tiếp cận các vùng này, các nhà đầu cơ và nhà đầu tư nắm bắt cơ hội để đóng vị thế và chấp nhận lỗ một khoản nhỏ vì họ chỉ mong thoát khỏi thị trường sau thời gian bị kẹp hàng.
Dù lý do là gì, thì các khu vực hỗ trợ và kháng cự sẽ giống như hình 7.10. Hành vi giá này xuất hiện trên tất cả các biểu đồ, các vùng giá mà thị trường đã đi ngang trong một thời gian dài đều được xác định một cách rõ ràng.
HỖ TRỢ VÀ KHÁNG CỰ
Hình 7.10 Hỗ trợ và kháng cự
Với hình ảnh so sánh tòa nhà có sàn và trần nhà để giải thích loại hành động giá này, tôi hy vọng sẽ giúp bạn hiểu về chúng một cách sinh động hơn. Hãy quan sát diễn biến trong giản đồ ở hình 7.10.
Giá giảm xuống, rồi lại tăng lên, sau đó giảm xuống và tăng lên,... Hành động giá theo hình ‘zig zag’ này được lặp đi lặp lại nhiều lần và kết quả là đã tạo ra ‘kênh’ hành động giá với các đỉnh và đáy như được hiển thị như trên giản đồ, tạo ra cái mà chúng ta gọi là mức sàn hỗ trợ và mức trần kháng cự. Mỗi khi hành động giá giảm xuống mức sàn, nó được hỗ trợ bởi một thứ giống như là một tấm đệm vô hình. Điều này không chỉ giúp ngăn thị trường giảm sâu hơn mà còn làm cho giá tăng cao hơn.
Khi giá bật ra khỏi mức sàn hỗ trợ, nó sẽ quay trở lại mức trần kháng cự - một rào cản vô hình lại xuất hiện, lần này là ngăn giá tăng cao hơn đồng thời kéo nó giảm xuống một lần nữa. Bạn còn nhớ trò chơi ping pong với hai tấm chắn trên máy tính chứ, giống hệt như vậy. Giá sẽ nảy lên và nảy xuống không ngừng. Nhưng đến một thời điểm nào đó, giá sẽ bứt phá ra khỏi vùng này.
Trước khi tiếp tục nội dung khác, tôi muốn kiểm tra lại và làm rõ một điều quan trọng nhất: tại sao hành động giá này lại quan trọng đến vậy. Chúng ta sẽ cố gắng giải đáp nghi vấn này tại đây.
Giả sử trong giây lát, hành động giá trong hình 7.10 không phải là cao trào bán mà sẽ bứt phá và tăng cao hơn. Vậy điều gì đang thực sự xảy ra trong kịch bản này?
Đầu tiên, thị trường đã tăng cao hơn, phe mua vẫn mua theo xu hướng, nhưng sau đó giá đảo chiều và giảm xuống. Lớp phe mua đầu tiên bị mắc kẹt ở mức cao hơn này và hiện đang hối hận về quyết định của mình. Họ bị dính bẫy tăng. Thị trường di chuyển xuống thấp hơn, nhưng sau đó bắt đầu tăng trở lại, thì lớp phe mua thứ hai tại mức thấp hơn này lo sợ rằng họ có thể sẽ bỏ lỡ nếu giá tăng cao hơn theo xu hướng và họ mua thêm. Khi thị trường tiếp cận điểm đảo chiều lúc trước, những phe mua bị mắc kẹt trong quá khứ vui mừng bán ra để thoát khỏi thị trường và một khoản lỗ nhỏ, ai may mắn thì hòa vốn.
Áp lực bán này đẩy thị trường xuống thấp hơn, rời khỏi mức trần kháng cự, nhưng lớp phe mua thứ hai lại đang mắc kẹt.
Sau đó, thị trường chạm sàn một lần nữa, lóp phe mua thứ ba nhập cuộc, cho rằng thị trường sẽ tăng lên nên đã đẩy giá lên mức trần. Lớp phe mua thứ hai nhanh chóng bán tháo và thoát khỏi thị trường với mọi khoản lỗ nhỏ để lại lớp người thứ ba đang ôm hàng trên mức trần kháng cự. Hành động giá cứ thế lặp đi lặp lại.
Tại đỉnh của mỗi con sóng, phe mua bị kẹt lại và sau đó thoát ra, bán lại cho phe mua mới khi xuất hiện con sóng thứ hai, những người này sau đó lại trao tay cho những người khác ở con sóng tiếp theo. Chính việc mua rồi bán liên tục này tại cùng một mức giá đã tạo nên một ‘dải băng vô hình’ giới hạn bởi hai mức đỉnh và đáy trên biểu đồ giá.
Những phe mua tại mức sàn hỗ trợ rất vui vẻ và kỳ vọng giá tăng lên. Họ đã mua với giá rẻ khi thị trường giảm trở lại, chứng kiến giá tăng lên sau dó giảm về mức đặt lệnh ban đầu. Không như những phe mua tại mức trần kháng cự, họ vẫn an toàn và chưa thua lỗ. Cùng lắm thì hòa vốn, cho nên họ hy vọng có được lợi nhuận. Sự sợ hãi vẫn chưa thể thúc đẩy họ đưa ra quyết định.
Trên thực tế, các mức giá sàn và giá trần này không có gì vi diệu cả. Chúng chỉ đơn giản là đại diện cho mức độ ‘đỉnh điểm’ của nỗi sợ hãi và lòng tham trong vùng giá và thời điểm nào đó. Phải luôn nhớ rằng, hành động giá được thúc đẩy bởi hai cảm xúc cơ bản này, và trong giai đoạn tắc nghẽn của hành vi thị trường, chúng ta sẽ được chứng kiến những cảm xúc này ở dạng cơ bản nhất, ở đỉnh của con sóng đầu tiên, lòng tham được đẩy lên đỉnh điểm. Khi con sóng thứ hai xuất hiện, tâm lý thị trường được thay thế bởi sự trầm lắng và nỗi sợ hãi.
LÒNG THAM VÀ NỖI SỢ THÚC ĐẨY THỊ TRƯỜNG - ĐỈNH ĐIỂM CỦA XU HƯỚNG TĂNG
Hình 7.11 Lòng tham và nỗi sợ - Xu hướng tăng
Như chúng ta có thể thấy trong giản đồ ở hình 7.11, tất cả đều rất hợp lý khi chúng ta tư duy theo cảm xúc mua và bán. Cảm xúc đỉnh điểm khi thị trường chạm đỉnh của con sóng đầu tiên là lòng tham, kết hợp với cảm xúc sợ hãi - nỗi sợ bỏ lỡ cơ hội một giao dịch tốt. Hãy nhớ rằng, những nhà giao dịch này trước sau gì cũng bị mắc kẹt. Tại sao? Bởi vì họ đã chờ đợi từ rất lâu, chứng kiến thị trường cứ tăng liên tục, họ sợ hãi không dám nhập cuộc vì lo lắng và rất nhạy cảm, nhưng trong lòng lại ngổn ngang vì sợ nếu không mua vào thì sẽ bỏ lỡ cơ hội làm giàu, và bây giờ họ đang ước gì tham gia sớm hơn. Cuối cùng, để sửa sai, họ quyết định mua ngay đỉnh của con sóng đầu tiên.
Thị trường sau đó nhanh chóng đảo chiều, và ngay lập tức họ lo sợ bị thua lỗ. Thị trường giảm xuống rồi bật lên trở lại. Ở đáy con sóng đầu tiên, đã xuất hiện những phe mua đang hài lòng với ‘mức giá tốt’ mà họ bắt được. Thị trường tăng trở lại đỉnh cũ.
Những phe mua đầu tiên ở mức này không thể chờ đợi thêm được nữa, họ thoát khỏi thị trường để chỉ thua một khoản nhỏ.
Hãy nhớ rằng, trong suốt giai đoạn hành động giá này, họ CHƯA BAO GIỜ có được lợi nhuận, chỉ là khoản lỗ ngày càng tăng, sau đó giảm trở lại gần bằng không. Nếu có một công cụ chỉ báo mức độ sợ hãi của họ, thì chúng ta sẽ thấy chỉ báo này sẽ tăng dần đều khi giá rớt xuống đáy, và giảm dần đều khi giá tăng lên lại, nhưng chắc chắn là không lúc nào tâm lý của họ thoát khỏi nỗi sợ hãi vì chưa kiếm được 'lợi nhuận tiềm năng' nào cả, cho nên nhóm này chỉ cần thua lỗ nhỏ là đã thỏa mãn lắm rồi.
Xét cho cùng, tại một thời điểm, mức thua lỗ tiềm ẩn có thể còn tồi tệ hơn nhiều, vì vậy nhóm này cho rằng họ đã hoàn thành tốt nhiệm vụ khi đóng vị thế chỉ với một khoản lỗ nhỏ. Cũng nên nhớ rằng nhóm này dù sao cũng giao dịch theo cảm tính, hầu như họ luôn ở thế yếu khi mở bất kỳ giao dịch nào, và do đó rất dễ bị thao túng do hành động theo cảm tính.
Nhóm đã mua ở đáy của sóng đầu tiên thấp hơn lại có một hoàn cảnh hoàn toàn khác. Họ đã chờ đợi rất lâu, và mua khi giá được kéo ngược về đáy chứ không mua đuổi theo giá, họ biết mình phải kiên nhẫn. Nói chung, nhóm phe mua này có kinh nghiệm hơn.
Tại đỉnh con sóng thứ ba (con sóng tăng), vị thế của họ đã có một chút lợi nhuận, trước khi đảo chiều giảm trở lại mức đặt lệnh ban đầu. Tuy nhiên, trong suốt quá trình diễn biến giá, không có một thời điểm nào mà họ phải trải qua cảm giác thua lỗ cả. Họ có thể hối tiếc về quyết định không đóng vị thế ở đỉnh con sóng mà tiếp tục nắm giữ vì kỳ vọng giá sẽ tăng trở lại.
Phản ứng cảm xúc của họ vì thế mà rất khác. Không như nhóm mua tại đỉnh con sóng, nhóm này chịu ít áp lực căng thẳng về mặt tinh thần hơn khi diễn biến từng con sóng. Tất cả những gì họ phải đối phó là áp lực cảm xúc khi thấy lợi nhuận tiềm năng của mình bị tụt giảm, chứ không phải áp lực khi tài khoản được phục hồi sau một khoản lỗ tiềm năng. Những phe mua ở đỉnh mỗi sóng có thể được xem là đang ở thế yếu, ngược lại, nhóm phe mua tại đáy lại đang nắm thế thượng phong. Đương nhiên, tôi chấp nhận rằng đây là một cách rất đơn giản để xem xét hành động giá thị trường ở những khu vực này, song đây chỉ là trường hợp điển hình mà thôi.
Chính dòng chảy liên tục của phe mua và phe bán tham gia thị trường trong những vùng này, tạo ra những rào cản vô hình về giá cả, những rào cản này sau đó trở thành kháng cự và hỗ trợ giá trong tương lai, vì những vùng giá này tập trung dày đặc những phe mua và phe bán ở cả thế yếu và lẫn thế thượng phong.
Do đó, chúng ta có thấy điều tương tự ở đáy của một xu hướng giảm không? Và câu trả lời là có. Bạn có thể áp dụng nguyên tắc tương tự cho trường hợp ngược lại.
LÒNG THAM VÀ NỖI SỢ THÚC ĐẨY CON SÓNG - ĐÁY CỦA XU HƯỚNG GIẢM
Đối với xu hướng giảm, các nguyên tắc hoàn toàn giống với xu hướng tăng đã được đề cập ở trên. Như chúng ta có thể thấy trong giản đồ hình 7.12, thị trường đã giảm giá được một thời gian và một lần nữa, các nhà giao dịch yếu về mặt cảm xúc lại bị thu hút vào thị trường, cũng là lúc giá sắp đảo chiều. Họ chứng kiến những nhà giao dịch khác kiếm được lợi nhuận tốt từ việc giảm giá, và cuối cùng họ đã vượt qua sự rụt rè và đưa ra quyết định cảm tính: nhảy vào theo xu hướng thị trường.
Ngay lập tức, thị trường đảo chiều và bật tăng hơn khiến họ rơi vào vị thế thua lỗ, sau đó mọi thứ trở nên tồi tệ hơn. Nỗi sợ hãi càng gia tăng khi mức thua lỗ càng nặng nề.
Cuối cùng, thị trường quay trở lại vị trí mà họ đã đặt lệnh ban đầu, và họ thoát ra, nhẹ nhõm vì chỉ lỗ một khoản nhỏ.
Các nhà giao dịch mạnh về cảm xúc thì bán khi thị trường diễn biến tại đỉnh con sóng và vị thế của họ nhìn chung đều không lỗ trong suốt thời gian thị trường di chuyển lên xuống trong vùng giá đi ngang.
Như đã đề cập phần trước, giá đi ngang tạo ra các rào cản vô hình vì tập trung dày đặc những phe mua và phe bán ở thế yếu và cả thế thượng phong, khiến chúng trở thành các ngưỡng hỗ trợ hoặc kháng cự giá trong tương lai.
Tôi hy vọng lời giải thích ở trên ít nhất đã cho bạn một cái nhìn sâu sắc về nguyên nhân tại sao những mức giá này lại quan trọng. Chúng cố định và tạo ra những ngưỡng kháng cự/hỗ trợ giá vô hình trên tất cả các biểu đồ, bạn có thể thấy rõ ràng những mức cản này bằng việc sử dụng các đường nằm ngang đi qua hành động giá tại đỉnh và đáy mỗi con sóng. Từ đó chúng ta sẽ có cái nhìn trực quan hơn về vị trí của chúng. Mỗi khi hành động giá trong tương lai tiếp cận các vùng giá này - nơi có mật độ phe mua và phe bán dày đặc, chúng ta có thể kỳ vọng thị trường ít nhất sẽ tạm dừng và ‘kiểm định lại’ cung/cầu theo một số cách thức, tôi sẽ đề cập ngay sau đây.
Khi thị trường tạm dừng tại một trong những vùng giá này cũng là một điểm quan trọng không kém. Giá chỉ tạm dừng mà thôi, sau đó sẽ tiếp tục di chuyển theo hướng ban đầu. Cả hai đặc điểm này đều rất quan trọng, vì chuyển tải cho chúng ta những tín hiệu cần thiết, tất cả đều được xác thực bằng khối lượng, mà chúng ta sẽ xem xét ngay sau đây. Nhưng trước tiên, tôi cần phải đưa ra một số nguyên tắc chung khi sử dụng kỹ thuật phân tích này.
NGUYÊN TẮC ĐẦU TIÊN
Đường kẻ chúng ta vẽ trên biểu đồ để xác định trần và sàn của các vùng giá này không phải các mức bất di bất dịch. Hãy xem chúng như những sợi dây cao su mềm dẻo. Nhớ rằng, phân tích kỹ thuật và VPA là một môn nghệ thuật chứ không phải khoa học chính xác. Mặc dù các mức này tạo thành các ngưỡng kháng cự/hỗ trợ giá, nhưng chúng không phải là những bức tường vững chắc và đôi khi bạn sẽ thấy giá xuyên qua chúng rồi quay trở lại tiếp cận một lần nữa. Do đó, hãy tư duy tương đối và linh hoạt hơn khi vẽ các mức này.
NGUYÊN TẮC THỨ HAI
Hãy luôn ghi nhớ định luật thứ hai của Wyckoff: luật nhân quả. Nguyên nhân lớn sẽ được phản ánh trong kết quả lớn, và có thể áp dụng cho ngưỡng hỗ trợ và kháng cự. Thị trường đi ngang trong một phạm vi hẹp càng lâu, thì hành động giá bứt phá ra khỏi phạm vi này càng kịch tính và mạnh mẽ. Đương nhiên tất cả điều này chỉ là tương đối, nhất là bởi vì nếu thị trường đã đi ngang trong một vài tuần trên biểu đồ ngày thì nó sẽ có xu hướng với thời lượng tương đương như vậy, hoặc sự bứt phá ra khỏi vùng đi ngang trên biểu đồ 5 phút có thể chỉ kéo dài một giờ hoặc hơn một chút - tất cả chỉ là tương đối. Hãy nhớ rằng, luật nhân quả bao gồm cả khái niệm về thời gian.
NGUYÊN TẮC THỨ BA
Nguyên tắc thứ ba có lẽ là nguyên tắc khiến hầu hết các nhà giao dịch mới bối rối: làm sao để biết khi nào thị trường bị tắc nghẽn? Nói cho cùng, nếu lấy quá khứ để phân tích lại thì rất dễ để biết giá tắc nghẽn ở vùng nào, nhưng khi thị trường diễn biến, thì chỉ ‘sau khi xảy ra’ giai đoạn tắc nghẽn thì mọi thứ mới có thể khẳng định được.
Đây là lúc mà các đỉnh/đáy xoay chiều tách biệt trở thành các tín hiệu quan trọng. Tuy tồn tại nhiều công cụ tự động xác định, nhưng bằng mắt thường, bạn có thể dễ dàng phát hiện ra chúng.
CÁC ĐIỂM XOAY CHIỀU TÁCH BIỆT
Đây là những điểm cụ thể bắt đầu mọi giai đoạn tắc nghẽn giá. Và cách dễ nhất để hiểu những điểm xoay chiều là giả sử thị trường đang tăng cao hơn trong một xu hướng tăng và một đỉnh xoay chiều tách biệt xuất hiện trên biểu đồ. Đây là dấu hiệu đầu tiên của sự suy yếu. Các điểm xoay chiều này được tạo ra từ bộ ba cây nến/thanh giá đảo chiều, được minh họa như trong hình 7.13. Điều kiện để trở thành bộ ba cây nến/thanh giá đảo chiều - mô hình đỉnh xoay chiều là cây nến ở giữa phải có mức đỉnh và đáy cao hơn mức đỉnh và đáy của hai cây nến hai bên. Từ mô hình này, chúng ta có thể kỳ vọng một hành động đảo chiều trong ngắn hạn.
Hình 7.13 Các điểm xoay chiều
Tương tự như vậy, mô hình đáy xoay chiều được tạo ra từ bộ ba cây nến/thanh giá mà cây nến ở giữa có đỉnh và đáy thấp hơn đỉnh và đáy của hai cây nến hai bên. Xem hình 7.13 để có cái nhìn trực quan về mô hình này.
Khi hai mô hình đỉnh xoay chiều và đáy xoay chiều xuất hiện trên biểu đồ, chúng ta tiến hành vẽ hai đường kẻ ngang đi qua hai mô hình này để xác định mức trần và sàn của vùng tắc nghẽn. Đường đi qua đỉnh xoay chiều là trần kháng cự, còn đường đi qua đáy xoay chiều là sàn hỗ trợ. Những mô hình đơn giản này không chỉ là điểm đầu tiên tìm ra vùng tắc nghẽn, mà còn xác định được các mức cản giá trong suốt quá trình giá đi ngang. Hình 7.14 là giai đoạn khởi đầu của vùng tắc nghẽn.
Hình 7.14 Giai đoạn khởi đầu của vùng tắc nghẽn - Xu hướng tăng
Chúng ta cũng có thể áp dụng cách tiếp cận này khi thị trường đang giảm và bước vào giai đoạn tắc nghẽn. Hình 7.15 là ví dụ minh họa về việc xác định vùng tắc nghẽn với các đỉnh và đáy xoay chiều trong xu hướng.
Một khi đã xác định rõ ngưỡng trần, sàn và thị trường đã đi vào sâu trong vùng tắc nghẽn, chúng ta sẽ tìm thấy những điểm xoay chiều khác tại hai mức trần, sàn.
Tại thời điểm này, đã xác định rõ ràng các mức trần và sàn, và khi thị trường tiếp tục đi sâu vào vùng tắc nghẽn, chúng ta sẽ thấy các điểm xoay khác chạm vào hai biên trên và dưới làm cho các vùng giá này được củng cố hơn. Chuyện gì xảy ra tiếp theo?
Hình 7.15 Giai đoạn khởi đầu của vùng tắc nghẽn - Xu hướng giảm
Tất nhiên, vào một số thời điểm, thị trường cuối cùng cũng sẽ bứt phá ra khỏi những vùng này, hoặc xác nhận sự tiếp diễn xu hướng cũ hoặc cung cấp tín hiệu đảo chiều xu hướng. Và đây là lúc mà chúng ta hành động sau một thời gian chờ đợi.
Tuy nhiên, trong suốt giai đoạn tắc nghẽn giá, chúng ta liên tục tìm kiếm manh mối và tín hiệu bằng cách sử dụng kiến thức VPA để xác nhận sự suy yếu hoặc sự mạnh lên khi thị trường vẫn đang đi ngang. Hơn nữa, nếu giai đoạn tắc nghẽn được tạo ra là do cao trào mua hoặc bán, thì các tín hiệu sẽ rất rõ ràng.
Tuy nhiên, một khi đang trong giai đoạn tắc nghẽn, tín hiệu mà chúng ta liên tục theo dõi hiện tại là khối lượng tương ứng với mọi sự bứt phá ra khỏi vùng giá này. Như chúng ta đã thấy, các vùng tắc nghẽn được ví như khu vực đông dân cư, nơi trú ngụ của nhiều nhà giao dịch bị mắc kẹt ở vị trí bị động, và vì vậy, bất kỳ sự bứt phá nào vượt qua đó cũng cần phải có khối lượng, rất nhiều khối lượng. Nếu sự bứt phá chỉ được hỗ trợ bởi một khối lượng thấp, thì đây không phải là bứt phá mà là cái bẫy mà những người giao dịch nội bộ giăng ra, thường được gọi với cái tên quen thuộc ‘phá vỡ giả’ (fake out).
Việc bứt phá khỏi vùng giá như vậy với khối lượng thấp, là một chiêu bẫy kinh điển của những người giao dịch nội bộ và thường được gọi là ‘giả mạo’.
Những người giao dịch nội bộ đang cố gắng bẫy các nhà giao dịch đi sai hướng của thị trường một lần nữa bằng một chiến lược hết sức kinh điển - bứt phá ra khỏi vùng tắc nghẽn. Chỉ các nhà giao dịch VPA mới biết về hành động giả này, vì khối lượng liên quan đến bất kỳ sự dịch chuyển nào của giá, dù là cao hơn hoặc thấp hơn cũng sẽ hiển thị rõ ràng trên biểu đồ. Đây là lý do tại sao các vùng giá này rất quan trọng và chúng quan trọng vì ba lý do:
Đầu tiên, nếu chúng ta đang nắm giữ vị thế trên thị trường, và một có một sự bứt phá đã được xác thực xuất hiện, thì đây là tín hiệu rất rõ ràng về sự tiếp diễn xu hướng, và do đó chúng ta có thể tự tin duy trì vị thế của mình.
Thứ hai, nếu vẫn đang đứng ngoài thị trường, thì đây cũng là một tín hiệu tuyệt vời để mở vị thế.
Thứ ba, nếu đang nắm giữ vị thế và xu hướng đảo chiều theo hướng không có lợi, thì chúng ta cũng có một tín hiệu rõ ràng để đóng vị thế.
Cuối cùng, một khi thị trường bứt phá ra khỏi những vùng này, thì chúng sẽ là một nền tảng giá (hỗ trợ và kháng cự) rõ ràng nếu trong tương lai giá có quay lại. Từ đó, chúng ta sẽ dễ dàng hơn trong việc quản lý và thoát vị thế dựa trên những mục tiêu giá được tạo ra từ các nền tảng này. Tôi đã từng nói rằng: đặt lệnh thì dễ chứ thoát lệnh thì rất khó, và đây là cách giúp các nhà giao dịch giảm đi sự gian nan đó vì nó cung cấp một bản đồ trực quan về ngưỡng kháng cự/hỗ trợ mà thị trường sẽ phải dừng lại hoặc đảo chiều.
Bây giờ chúng ta sẽ bắt đầu phân tích hành động bứt phá và khối lượng tương ứng, cũng như điều mà mọi người kỳ vọng khi thị trường vượt ra khỏi vùng giá tắc nghẽn.
Hình 7.16 là một giản đồ hoàn hảo về những gì chúng ta mong đợi: một hành động bứt phá tăng. Kịch bản tiếp theo có thể là sự tiếp diễn xu hướng tăng hiện tại hoặc đảo chiều giảm. Nhưng điều đó không quan trọng. Những điểm quan trọng đều giống nhau, và là những điểm sẽ được đề cập dưới đây.
Hình 7.16: Giá bứt phá ra khỏi vùng tắc nghẽn: Xu hướng tăng
Đầu tiên, để bất kỳ sự bứt phá và duy trì nào bên ngoài vùng tắc nghẽn là thật (không phải cái bẫy), chúng ta cần nhìn thấy ‘sự rõ ràng’ của hành động giá bên trên mức trần kháng cự. Hãy nhớ điều mà tôi đã nói trước đó. Đây là những mức linh hoạt và tương đối, chúng mềm dẻo như dây cao su, do đó nếu giá chỉ vượt lên vài tick thì không được gọi là bứt phá. Chúng ta cần thấy một giá đóng cửa phải nằm bên trên mức trần một cách rõ ràng. Một câu hỏi được đặt ra: ‘bao nhiêu mới được gọi là rõ ràng?’. Thật không may là không có một quy tắc nào bất di bất dịch cả. Tất cả đều tùy thuộc sự phán đoán, kinh nghiệm và cả thị trường vì mỗi thị trường sẽ có hành vi giá và đặc điểm rủi ro riêng biệt. Nhưng cần phải có một khoảng cách ‘có thể nhìn thấy rõ ràng’ giữa giá đóng cửa và mức trần của vùng tắc nghẽn. Đây là tín hiệu đầu tiên cho thấy sự bứt phá đang diễn ra. Tín hiệu thứ hai chính là khối lượng.
Như chúng ta có thể thấy trong hình 7.16, giá ban đầu tăng cao hơn và xuyên qua mức trần phải đi kèm với khối lượng lớn và tăng dần. Cần phải có một nỗ lực để thoát ra khỏi vùng này giống như ra sức kéo ai đó ra khỏi vũng lầy hoặc cát lún. Tương tự như vậy, khối lượng tương ứng với một vài thanh tiếp theo phải phản ánh được nỗ lực này. Nếu không, thì đó hoặc là một cái bẫy tăng của những người giao dịch nội bộ, hoặc đơn giản là không có sự thiết tha từ những người tham gia thị trường muốn đẩy thị trường lên cao hơn trong giai đoạn này.
Nếu đó là một đợt tăng thật, khối lượng khi giá bứt phá ban đầu sẽ cao hơn mức trung bình và tăng lên, khi cuối cùng thị trường cũng bắt đầu xây dựng xu hướng mới. Ở giai đoạn này, đừng ngạc nhiên khi thấy thị trường quay đầu kiểm định mức trần cũ (bây giờ đã là mức sàn) khi đã tăng được một đoạn, nhưng đợt điều chỉnh này sẽ đi kèm với khối lượng thấp hoặc giảm, vì xu hướng chủ đạo vẫn là tăng và được kỳ vọng sẽ thấy khối lượng tăng kèm theo, nếu đây là một xu hướng tăng thực sự. VPA sẽ làm mọi thứ trở nên rõ ràng hơn bằng việc phân tích nến tại các hành động giá khi xu hướng bắt đầu phát triển.
Đối với xu hướng giảm, chúng ta có thể áp dụng tương tự các quy tắc trên (Xem hình 7.17). Một lần nữa, không có gì khác biệt dù là sự tiếp diễn hay đảo chiều xu hướng giữa tăng và giảm cả.
Chỉ có một sự khác biệt duy nhất là đó là tên gọi, trong xu hướng giảm, giá sẽ bứt phá qua mức sàn hỗ trợ chứ không phải là mức trần kháng cự nữa.
Cũng tương tự như vậy, hành động bứt phá này cần phải rõ ràng, đi kèm với một khối lượng trên trung bình phản ánh đúng nỗ lực của giá. Không có gì ngạc nhiên khi giá quay trở lại kiểm định mức sàn cũ (bây giờ đã là mức trần), nhưng đợt kéo lên này chỉ tiêu hao một khối lượng rất thấp, và khi thị trường giảm theo xu hướng cũ thì khối lượng cũng tăng trở lại. Hãy nhớ rằng, xu hướng giảm giá muốn được coi là thực sự thì phải được phản ánh bởi khối lượng cao và tăng dần.
Tôi đã dùng hết lời để nhấn mạnh tầm quan trọng của vùng giá tắc nghẽn. Nó là một trong những nền tảng hành động giá, vì tiết lộ rất nhiều điều và cho chúng ta rất nhiều cơ hội giao dịch. Thậm chí có rất nhiều nhà giao dịch trên khắp thế giới chỉ giao dịch khi có sự bứt phá khỏi vùng tắc nghẽn, và không làm gì thêm nữa.
Chúng ta cũng có thể giao dịch khi giá bứt phá ra khỏi vùng tắc nghẽn được xác định bằng các điểm xoay chiều, sau đó dùng VPA để đọc hành động giá, và cuối cùng, khi sự bứt phá đó được xác thực bằng khối lượng, chúng ta có thể mở vị thế.
Lúc này, hỗ trợ và kháng cự lại là nền tảng thứ hai trong phân tích giá. Mọi nhà giao dịch toàn thời gian mà tôi đã từng giao lưu đều sử dụng khái niệm này theo cách của họ. Và như bạn sẽ thấy, bây giờ chúng ta đã hiểu về vùng tắc nghẽn giá, thì hỗ trợ/kháng cự là một khái niệm mạnh mẽ và đơn giản có thể được áp dụng theo nhiều cách.
Nó có thể được sử dụng để xác định điểm đặt lệnh, cũng có thể dùng để quản lý lệnh, và cuối cùng là chọn mục tiêu thoát lệnh. Nói một cách dễ hiểu, đây là một trong những kỹ thuật mạnh mẽ nhất mà bạn có thể áp dụng, và khi kết hợp với sự hiểu biết về VPA, sẽ cho bạn cái nhìn sâu sắc về hành vi thị trường mà ít nhà giao dịch hoặc nhà đầu tư nào đạt được. Đây cũng là một giai đoạn hành động giá khi các xu hướng được sinh ra. Nhiều nhà giao dịch và nhà đầu tư cảm thấy thất vọng khi thị trường chuyển sang giai đoạn tắc nghẽn, nhưng trên thực tế, đây là một trong những giai đoạn thú vị nhất của hành vi thị trường, vì nó chỉ là vấn đề về sự kiên nhẫn và chờ đợi.
Khi đã sẵn sàng, thị trường sẽ bùng nổ và một xu hướng mới được thiết lập. Và mức độ (độ dài) của bất kỳ xu hướng nào sẽ được quy định bởi quy luật nhân quả.
Trước khi kết thúc chương này, tôi sẽ tóm tắt lại một chút về khái niệm hỗ trợ và kháng cự được xây dựng dựa trên kiến thức mà chúng ta đã có về sự tắc nghẽn giá, và hình ảnh so sánh mà tôi luôn sử dụng: một ngôi nhà. Đó là lý do tại sao tôi đã sử dụng thuật ngữ mức sàn và mức trần để mô tả biên trên và biên dưới của vùng tắc nghẽn.
HỖ TRỢ VÀ KHÁNG CỰ - NGÔI NHÀ
Hình 7.18 Hỗ trợ và Kháng cự. Ngôi nhà
Hãy tưởng tượng bạn đang nhìn vào một mặt cắt dọc của một ngôi nhà được thể hiện trong sơ đồ ở hình 7.18. Nói cách khác, những gì chúng ta đang nhìn ở đây là một ngôi nhà bị dỡ bỏ mặt trước, giống như một ngôi nhà búp bê kiểu cũ với cửa đang mở. Bây giờ bạn có thể nhìn thấy tất cả các sàn và trần trong ngôi nhà: có một tầng trệt, tầng một, tầng hai và mái nhà.
Đường zig zag thể hiện thị trường đã di chuyển từ tầng trệt lên mái nhà và quay trở lại.
Để hình dung rõ hơn về khái niệm hỗ trợ và kháng cự, hãy để tôi giải thích hành động giá trên giản đồ khi nó di chuyển. Thị trường tăng lên từ sàn tầng trệt, và cuối cùng chạm đến mức trần, cũng là lúc nó chuyển sang tình trạng tắc nghẽn - giá đi ngang. Tại thời điểm này, trần nhà chính là một vùng kháng cự của giá ngăn cản bất kỳ đợt tăng nào cao hơn. Tuy nhiên, vào một thời điểm, mức trần bị phá vỡ và thị trường vượt qua mức sàn đầu tiên. Trần của tầng trệt bây giờ lại trở thành sàn của tầng một. Nói cách khác, vùng kháng cự hiện đã trở thành vùng hỗ trợ giá.
Thị trường tiếp tục tăng cao hơn cho đến khi chạm mức trần của tầng đầu tiên, sau đó giá chuyển sang giai đoạn đi ngang rồi bứt phá lên tầng thứ hai. Bây giờ trần của tầng thứ nhất cũng là sàn của tầng thứ hai - tức là hỗ trợ.
Cuối cùng, giá tăng chạm trần của tầng thứ hai và bị ngăn lại tại đó. Cho thấy mức trần này quá mạnh khiến cho thị trường phải đảo chiều. Mức trần vẫn không bị xâm phạm và cản mọi nỗ lực tăng giá sau này.
Thị trường sau đó đã di chuyển xuống thấp hơn, đã đảo chiều, quay trở lại mức sàn, rồi đi ngang, trước khi bứt phá và đi xuống tầng thứ nhất. Tại đó, giá lại chạm sàn và xuyên qua đi xuống tầng trệt. Trong trường hợp này, chúng ta thấy được điều ngược lại, ngưỡng sàn hỗ trợ giờ đây trở thành ngưỡng trần kháng cự.
Cụ thể, mức sàn đầu tiên, sau khi giá bứt phá đi xuống trở thành mức trần kháng cự mà giá đã quay trở lên kiểm định lần nữa.
Nhưng, tại sao khái niệm này lại quan trọng đến vậy?
Hỗ trợ và kháng cự rất quan trọng vì một số lý do. Đầu tiên, như chúng ta đã thấy, sự bứt phá ra khỏi vùng giá đi ngang có thể được xác thực nếu đi kèm với khối lượng, từ đó cung cấp những cơ hội giao dịch tuyệt vời. Chúng ta gọi là ‘giao dịch bứt phá’ (breakout trade).
Thứ hai, và có lẽ cũng quan trọng không kém, lý do khiến phương pháp giao dịch này trở nên phổ biến bao hàm trong chiến lược của nó, kháng cự và hỗ trợ tạo ra những vùng giá sử dụng như một phần của chiến lược giao dịch, mà trong thực tế bạn sử dụng chúng để bào vệ vị thế đang nắm giữ. Chẳng hạn, nếu sử dụng giao dịch bứt phá, thị trường bản thân nó đã tạo ra những vùng cản tự nhiên để bảo vệ vị thế của bạn khỏi những biến động bất ngờ theo hướng không có lợi cho bạn.
Quay lại hành động giá trong ví dụ “ngôi nhà” ở trên. Khi tiếp cận mức trần ở tầng đầu tiên, giá đi ngang, tạm dừng và sau đó xuyên qua để lên tăng tiếp theo. Giờ đây, mức trần đó trở thành ‘mức sàn tự nhiên’ hỗ trợ giá và bảo vệ chúng ta trong trường hợp giá quay đầu lại. Theo quan điểm của VPA, để giá xuyên qua trở lại và giảm xuống tầng đầu tiên thì cần phải có một nỗ lực tương ứng (khối lượng), do đó mà mức sàn này là một tấm chắn rất có lợi cho chúng ta. Không chỉ đóng vai trò bảo vệ, nó còn là nền tảng hỗ trợ (bạn gọi là nó bệ phóng cũng được) để giá tiếp tục tăng cạo hơn.
‘Vẹn cả đôi đường’. Bạn có thể an tâm khi biết rằng một khi thị trường đã xuyên qua một mức trần, nó không chỉ biến thành mức sàn mới hỗ trợ giá, mà còn là tấm lá chắn ngăn giá giảm trở lại khi thị trường quay đầu kiểm định lại những mức này. Bất cứ lệnh dừng lỗ nào đều có thể đặt ở mức thấp hơn vùng tắc nghẽn để an toàn hơn. Đây là lý do tại sao giao dịch bứt phá lại phổ biến đến vậy, và khi nó được hỗ trợ bởi VPA, sẽ càng trở nên mạnh mẽ hơn.
Các nguyên tắc tương tự cũng được áp dụng khi thị trường có xu hướng giảm. Ví dụ ‘ngôi nhà’ sử dụng cho xu hướng tăng, nhưng khi giá giảm, cơ chế sẽ được thị trường vận hành giống hệt như vậy.
Từ ‘mái nhà’, giá giảm xuống mức sàn của tầng thứ hai, cũng là mức trần của tầng thứ nhất, đi ngang rồi xuyên xuống nó. Như vậy mức sàn hỗ trợ giờ đây đã biến thành mức trần kháng cự. Cộng thêm áp lực giảm giá, và một tấm lá chắn tự nhiên ở trên, giá sẽ bị ngăn chặn nếu xuất hiện bất cứ sự đảo chiều ngắn hạn nào.
Một lần nữa, đối với một nhà giao dịch theo phương pháp bứt phá thì tình huống ‘vẹn cả đôi đường’ được áp dụng cho xu hướng giảm.
Với một xu hướng đã tiến triển tốt thì đây là cách để giao dịch hiệu quả, nhưng sức mạnh của nó tiềm ẩn trong hành động giá và diễn biến trong quá khứ. Nói một cách văn vẻ là thị trường che giấu một mã DNA của nó trong các biểu đồ giá. Những vùng tắc nghẽn này vẫn ở đó, và không mất đi đâu cả, giá thì vẫn cứ di chuyển, và tại một thời điểm nào đó trong tương lai, giá sẽ quay trở lại các vùng này, nếu nó không hoạt động trong một thời gian dài thì sẽ trở nên mạnh mẽ nếu được kích hoạt (giá tiếp cận vùng tắc nghẽn). Điều này đặt ra một câu hỏi là liệu thị trường có ký ức không?
Hay là bởi vì, với tư cách là nhà giao dịch, tất cả chúng ta đều nhìn vào cùng một biểu đồ, và do đó những vùng giá này trở thành những lời tiên tri tự ứng nghiệm? Có lẽ là do những chỗ này tập trung đông các nhà giao dịch đang bị mắc kẹt, vẫn kiên trì và chờ đợi có một ngày thị trường sẽ quay trở lại để họ thoát ra với một khoản thua lỗ nhỏ hoặc lợi nhuận nhỏ.
Nó cũng có thể là sự kết hợp của tất cả những điều này. Nhưng dù lý do là gì, thì những vùng này có thể và đóng một vai trò quan trọng trong hành vi giá khi chúng được thị trường ghé thêm nhiều lần. Ngoài ra, chỗ nào tập trung nhiều vùng tắc nghẽn thì tác động của chúng đối với chỗ đó càng đáng kể hơn.
Chúng ta hãy quay lại ví dụ ngôi nhà một lần nữa, và cụ thể là lúc thị trường không thể vượt qua mức trần ở tầng thứ hai. Lý do cho sự thất bại này là vì những vùng tắc nghẽn này đã kéo dài liên tục trong cùng một chỗ và giá đã từng thất bại khi tiếp cận trong quá khứ. Nếu như vậy, thì bạn có thể được chứng kiến vùng tắc nghẽn này ở khung thời gian cao hơn một cách rõ rệt, và dĩ nhiên, hoàn toàn có khả năng giá thất bại một lần nữa. Nguyên nhân đằng sau có thể đây là một cao trào bán trên đỉnh xảy ra nhiều năm trước đó và từng được xem là vùng mà thị trường rơi vào trạng thái quá mua còn bây giờ được xem là mức giá hợp lý.
Với tư cách là nhà giao dịch, đây là mức giá quan trọng và khối lượng sẽ cung cấp cho chúng ta tất cả các manh mối cần thiết để xác thực hành động giá tiếp theo. Nếu đây thực tế là một vùng tắc nghẽn cũ, vùng mà thị trường đã thất bại và đảo chiều trong quá khứ, thì khi giá bứt phá thành công càng củng cố thêm độ tin cậy cho xu hướng tăng sắp tới. Vùng tắc nghẽn cũ giờ đây trở thành nền tảng hỗ trợ quan trọng cho thị trường. Tương tự, nếu giá không thể vượt qua được cho thấy thị trường đang rất suy yếu, và chúng ta bắt đầu tìm kiếm những mô hình giá chính.
Đây là sức mạnh của hỗ trợ và kháng cự. Chúng đánh dấu tất cả các vùng tắc nghẽn xuất hiện liên tục. Chúng được ví như mật mã DNA của thị trường. Mọi thứ xảy ra trong lịch sử sẽ tiếp tục diễn biến ở hiện tại và tương lai, cho dù là xu hướng tăng hay xu hướng giảm. Trong ví dụ vừa nêu ở trên, thị trường đảo chiều khỏi vùng kháng cự, các vùng hỗ trợ cũ cũng mạnh mẽ không kém khi thị trường giảm vì chúng là nền tảng tự nhiên ngăn chặn giá giảm sâu hơn, và cũng giống như trong một thị trường đang tăng, nếu các vùng có độ sâu và rộng, thì những vùng đã từng làm đảo chiều xu hướng lớn trong quá khứ càng có ý nghĩa hơn.
Đương nhiên, các vùng tắc nghẽn giá có đủ hình dạng và kích cỡ, và tồn tại ở mọi khung thời gian. Chỉ số chứng khoán có thể giao dịch trong một phạm vi hẹp trong vài ngày hoặc thậm chí vài tuần. Một cặp tiền tệ có thể đi ngang trong nhiều tháng. Trái phiếu thường dao động trong phạm vi rất hẹp, đặc biệt là trong cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay. Cổ phiếu có thể bị đi ngang trong nhiều tháng.
Các vùng tắc nghẽn giá cũng có thể kéo dài trong vài phút hoặc vài giờ. Trong trường hợp đó, các khái niệm cơ bản của VPA vẫn giữ nguyên, tất cả những gì chúng ta phải nhớ là nguyên nhân và kết quả luôn đi đôi với nhau. Một vùng tắc nghẽn giá trên biểu đồ 5 phút sẽ vẫn cung cấp hỗ trợ và kháng cự cùng với bất kỳ cơ hội giao dịch bứt phá nào cho nhà giao dịch trong ngày, nhưng nếu đem những vùng này để giao dịch dài hạn thì ít hiệu quả hơn.
Chuyển sang các vùng tắc nghẽn trên biểu đồ ngày, và nếu chúng ta phát hiện ra một vùng tắc nghẽn giá, bất kỳ một sự bứt phá nào xuyên qua vùng này cũng đều rất quan trọng và cần phải chú ý nhiều hơn trong tương lai.
Nội dung này tạo cho tôi thêm một lý do nữa để sử dụng cách tiếp cận đa khung thời gian. Sự tắc nghẽn giá trên biểu đồ 5 phút sẽ ít có ý nghĩa hơn so với biểu đồ 15 phút, và so với biểu đồ giờ. Nói cách khác, khung thời gian càng dài thì ý nghĩa càng lớn, còn tất cả những thứ khác đều giống nhau. Nhân quả và khái niệm về thời gian một lần nữa có sự liên quan với nhau.
Hỗ trợ và kháng cự là một khái niệm mạnh mẽ theo đúng nghĩa của nó. Hãy kết hợp chúng với VPA để biến nó thành một nền tảng khác trong phương pháp giao dịch của bạn, dựa trên khối lượng và giá cả.