CHƯƠNG 05
PHÂN TÍCH GIÁ CẢ KẾT HỢP KHỐI LƯỢNG - VẼ MỘT BỨC TRANH LỚN
Sai lầm là người thầy tốt nhất, chúng ta không học từ thành công.
- Mohnish Pabrai (1964-) -
Trong chương trước, chúng ta đã học được một số nền tảng cơ bản của phương pháp VPA và cách áp dụng phân tích ban đầu cho từng thanh nến riêng lẻ, đến từng cụm nến nhỏ. Đây là hai bước đầu tiên trong quy trình ba bước phân tích VPA. Quy trình ba bước bắt đầu bằng việc xem xét một thanh nến, sau đó thu nhỏ lại ở bước 2 tức là xem xét những thanh nến gần đó. Cuối cùng, chúng ta thu nhỏ hơn nữa để nhìn thấy bức tranh toàn cảnh. Bước này cũng là nội dung trọng tâm của chương 5. Tôi hy vọng sẽ giúp các bạn củng cố những kỹ năng cơ bản đã học ở chương trước.
Ngoài ra trong chương này, tôi cũng sẽ giới thiệu một số khái niệm mới mà tôi hy vọng sẽ giúp đưa mọi thứ áp dụng vào bối cảnh thực tế và phát triển những cách tiếp cận mới cho phương pháp VPA. Tôi nghĩ đây có lẽ là lúc thích hợp nhất để trình bày, sau đó chúng ta sẽ quan sát nhiều ví dụ khác nhau và tôi có thể hướng dẫn bạn qua từng biểu đồ khi hành động giá diễn ra.
Trước tiên, bạn cần nắm được 5 khái niệm trọng tâm của phương pháp VPA sau:
Để hiểu những thuật ngữ này một cách đơn giản nhất, tôi đã giải thích cho bạn bằng hình ảnh câu chuyện nhà kho, từng được Richard Ney sử dụng trong quyển sách của ông khi đề cập đến những khái niệm này. Đây là những gì ông nói:
“Để hiểu cách làm của các tổ chức chuyên gia, nhà đầu tư phải hiểu được cách nghĩ của họ, họ là những thương gia muốn bán lượng hàng tồn với giá bán lẻ. Khi đã bán sạch kho, họ lấy lợi nhuận vừa kiếm được để nhập hàng lại với mức giá bán buôn.”
Tôi đã sử dụng ví dụ này trong bài viết của mình tại tạp chí Working Money sau đó nhiều năm, với tiêu đề “Truyện ngụ ngôn của chú Joe” (Parable of Uncle Joe).
Cách dễ nhất để tư duy về khối lượng kết hợp với hành động giá (khái niệm này áp dụng cho mọi thị trường) là liên tưởng đến hoạt động bán buôn. Tuy nhiên, để duy trì mọi thứ đơn giản, chúng ta cứ nghĩ đến những nhà tạo lập thị trường, những người giao dịch nội bộ, tổ chức chuyên gia ngay từ bây giờ. Họ là những thương gia có một kho hàng riêng, mục tiêu là kiếm lời bằng cách mua vào với giá bán buôn và bán ra với giá bán lẻ.
Ngoài ra, hãy nhớ rằng, theo những giải thích sau về Nguyên tắc thứ hai trong VPA, thị trường luôn cần thời gian để thay đổi theo hướng cực đoan, và điều này cũng được thể hiện trong quy luật nhân quả của Wyckoff. Chúng ta sẽ luôn chứng kiến những thay đổi nhỏ lên và xuống, khi thị trường kéo ngược trở lại hoặc đảo chiều trong một xu hướng dài hạn. Tuy nhiên, để những thay đổi lớn trong xu hướng xảy ra (và hãy nhớ rằng ‘thay đổi lớn’ có thể xuất hiện trên biểu đồ 5 phút hoặc biểu đồ 1 ngày), thì cần phải có thời gian. Thời gian thực hiện (nguyên nhân) càng lâu thì sự thay đổi (ảnh hưởng) càng lớn.
Tuy nhiên, tùy vào từng thị trường mà diễn biến sẽ có sự khác nhau. Một số thị trường có thể mất vài ngày, vài tuần hoặc thậm chí vài tháng, trước khi sẵn sàng thay đổi đáng kể, trong khi các thị trường khác có thể chỉ mất vài ngày. Tôi sẽ trình bày vấn đề này ở phần sau của quyển sách khi bắt đầu xem xét từng bản sắc khác nhau áp dụng cho từng thị trường cụ thể, vì chúng vận hành hơi khác nhau.
Các nguyên tắc chính vẫn áp dụng trong mọi trường hợp và mọi thị trường. Chỉ có khung thời gian và tốc độ di chuyển của giá là khác nhau vì cấu trúc từng thị trường khác nhau, vai trò của những người giao dịch nội bộ và vai trò của mỗi thị trường vốn cũng khác nhau (là phương tiện đầu cơ hay đầu tư).
Thuật ngữ đầu tiên chúng ta cần nắm đó là sự tích lũy.
GIAI ĐOẠN TÍCH LŨY
- ACCUMULATION PHASE
Trước khi những người giao dịch nội bộ bắt đầu làm bất cứ điều gì, họ cần đảm bảo rằng có đủ cổ phiếu hoặc hàng tồn kho để đáp ứng nhu cầu. Hãy coi đây là một nhà bán buôn sắp thực hiện một chiến dịch quảng cáo lớn cho một sản phẩm cụ thể. Điều cuối cùng mà bất kỳ người bán buôn nào cũng muốn làm là bỏ thời gian, công sức và tiền bạc cho một chiến dịch, chỉ để bán sạch hàng trên kệ. Cũng giống như những người giao dịch nội bộ. Họ muốn bán hết số hàng có trong tay. Đó là tất cả về cung và cầu. Nếu họ có thể tạo ra cầu, thì họ cần cung để đáp ứng nhu cầu đó.
Nhưng, làm thế nào để gom đủ hàng vào kho trước khi bắt đầu bất kỳ chiến dịch nào? Đây là lúc cần phải tích lũy và giống như một nhà kho thực sự, cần có thời gian để nhập đủ hàng. Đương nhiên, không thể làm đầy kho chỉ với một chuyến xe, họ cần phải có hàng trăm lần vận chuyển như vậy, và nên nhớ rằng, cùng lúc đó hàng hóa từ trong kho cũng đang được xuất ra chứ không nằm yên một chỗ. Trong thế giới tài chính, điều này không khác gì, cần có thời gian để làm mọi thứ.
Sự tích lũy - thuật ngữ được sử dụng để định nghĩa ‘giai đoạn tích lũy’, là giai đoạn mà những người giao dịch nội bộ nhập đủ hàng vào kho của họ trước khi thực hiện một chiến dịch tiếp thị lớn để bán cổ phiếu ra ngoài thị trường. Vì vậy, sự tích lũy ở đây là những người giao dịch nội bộ mua vào, tùy thuộc thị trường đang xem xét, có thể kéo dài vài tuần hoặc vài tháng.
Câu hỏi tiếp theo là làm thế nào để những người giao dịch nội bộ ‘khuyến khích’ mọi người cùng bán hàng cho họ? Thực sự rất đơn giản, và có một công cụ được gọi là phương tiện truyền thông. Các phương tiện truyền thông tin tức, ở mọi hình thức khác nhau của nó, là một cây đũa thần của họ. Qua nhiều thế kỷ, họ đã học được mọi thủ thuật được đề cập trong quyển sách này để thao túng các bản tin, các thông báo, thiên tai, tuyên bố chính trị, chiến tranh, nạn đói và dịch bệnh, và mọi thứ liên quan.
Các phương tiện truyền thông là một con quái vật háu ăn và luôn đòi hỏi những nguồn tin tức ‘mới mẻ’ và ‘nóng hổi’ nhất mỗi ngày. Những người nội bộ chỉ đơn giản là lợi dụng nỗi sợ hãi và lòng tham thường xuyên được tạo ra bởi những dòng tin này để thao túng thị trường vì nhiều lý do khác nhau, nhưng cốt yếu vẫn là để gạt những người đang tham gia ra khỏi thị trường.
Đây là những gì mà Richard Wyckoff viết vào những năm 1930 “Theo quy luật, những tổ chức điều hành lớn không tham gia vào một chiến dịch trừ khi họ nhìn thấy triển vọng của một xu hướng kéo dài 10 đến 50 điểm. Livermore từng nói với tôi rằng ông ấy không bao giờ mua bán bất cứ thị trường nào trừ khi giá di chuyển ít nhất 10 điểm theo tính toán của ông ấy. Việc chuẩn bị cho một động thái quan trọng trên thị trường cần một thời gian đáng kể. Một tổ chức điều hành hoặc nhà đầu tư lớn hành động đơn lẻ không thể thường xuyên, trong một ngày giao dịch, mua 25.000 đến 100.000 cổ phiếu mà không để giá tăng quá cao được. Thay vào đó, họ sẽ phải mất vài ngày, vài tuần hoặc vài tháng để tích lũy một hoặc nhiều cổ phiếu.”
Có lẽ ‘chiến dịch’ là từ thích hợp nhất trong trường hợp này. Giống như chiến dịch tiếp thị hoặc chiến dịch quân sự, những người nội bộ lên kế hoạch cho từng giai đoạn một cách chính xác về mặt quân sự, không có chuyện may rủi. Mỗi giai đoạn được chuẩn bị tỉ mỉ và thực hiện bằng cách sử dụng các phương tiện truyền thông để kích hoạt hoạt động bán ra. Nhưng làm thế nào để một giai đoạn tích lũy diễn ra? Trong thực tế, nó diễn ra như sau:
Người ta sẽ công bố một mục tin tức được cho là không tốt đối với thị trường. Những người nội bộ nắm lấy cơ hội khi thị trường giảm nhanh, kích hoạt sự bán tháo, thì họ bắt đầu giai đoạn tích lũy, gom hàng vào kho với giá thấp nhất có thể - còn gọi là giá bán buôn.
Thị trường ổn định lại khi tin xấu đã phản ánh hết vào giá, sau đó thị trường sẽ bắt đầu tăng lên, phần lớn là do những người nội bộ mua vào.
Có hai điểm cần lưu ý. Thứ nhất, những người nội bộ không thể làm mọi người sợ hãi quá nhiều, nếu không sẽ không có ai mua. Nếu có quá nhiều biến động, với những biến động mạnh, điều này sẽ khiến nhiều nhà đầu tư và nhà giao dịch sợ hãi, đồng nghĩa với việc không đạt được mục tiêu. Mỗi động thái đều được lên kế hoạch cẩn thận với mức độ biến động vừa đủ để khiến người nắm giữ hoảng sợ và bán ra. Thứ hai, hoạt động mua của những người nội bộ có thể đẩy giá tăng trở lại quá nhanh, vì vậy họ rất cẩn thận trong việc đảm bảo hàng để nhập kho được mua với khối lượng ‘có thể kiểm soát được’.
Việc mua quá nhiều sẽ khiến giá tăng nhanh chóng, vì vậy cần hết sức lưu ý và đây lại là một lý do nữa khiến giai đoạn tích lũy cần thời gian để hoàn thành. Đơn giản là không thể lấp đáy kho chỉ với một lần giảm giá. Nó sẽ không hiệu quả vì số lượng cần mua quá lớn. Các ví dụ đơn giản của chúng ta trong chương trước chỉ để giới thiệu các nguyên tắc cơ bản.
Điều xảy ra tiếp theo là bất kỳ ai sống sót sau đợt bán đầu tiên đều cảm thấy nhẹ nhõm, tin rằng thị trường sẽ phục hồi và họ tiếp tục nắm giữ. Sau một thời gian ổn định, nhiều tin xấu lại đến và những người nội bộ hạ giá một lần nữa, khiến những người nắm giữ tiếp tục rút khỏi thị trường. Và khi họ mua lại lần nữa, giá bắt đầu phục hồi.
Hành động giá này sau đó được lặp lại nhiều lần, mỗi lần những người nội bộ tích lũy ngày càng nhiều hàng vào kho của họ, cho đến khi những người nắm giữ cuối cùng bỏ cuộc và thừa nhận thất bại. Điều này thể hiện như thế nào trên biểu đồ giá?
Hình 5.10 là một hình vẽ minh họa hành động giá, tuy nhiên tôi hy vọng nó sẽ cho bạn cảm giác giống như trên một biểu đồ thực. Tôi đã tô đậm hoạt động mua vào lặp lại của những người nội bộ.
Hình 5.10 Giai đoạn tích lũy
Tôi đã cố tình tránh chia tỷ lệ giá và thời gian trên biểu đồ một cách chính xác, vì tin rằng ‘hình dạng’ của giá và các thanh khối lượng tương ứng mới là điều quan trọng. Đây là hành động giá tạo ra sự tắc nghẽn giá kinh điển mà chúng ta thường thấy trong tất cả các khung thời gian và đó là lý do tại sao ‘hình dạng’ này cực kỳ hữu ích, khi được kết hợp với khối lượng. Bằng cách sử dụng ba chiều quan sát, bạn có thể phân tích hành động giá dưới 3 giác độ.
Khi chiến dịch bắt đầu, hành động giá sau đó sẽ tuân theo mô hình kinh điển này, nơi thị trường liên tục di chuyển tăng lên và giảm xuống. Mô hình răng cưa (lặp đi lặp lại việc tăng lên giảm xuống) này là điều cần thiết để ‘rũ bỏ’ phe bán ra khỏi thị trường.
Chúng ta có thể liên tưởng điều này như việc rung một cái cây để quả rơi xuống, cụ thể là việc thu hoạch ô liu ở Ý. Cây phải được rung lắc liên tục để thu hoạch hết hoa quả. Một số quả vẫn còn bám chặt lấy tán cây, đòi hỏi người ta phải nỗ lực hơn để hái xuống. Điều này cũng tương tự như thị trường tài chính. Một số người nắm giữ hàng sẽ từ chối bán ra, bất chấp hành động rung lắc liên tục, nhưng cuối cùng họ cũng bỏ cuộc sau một vài lần ‘nhận ra sai lầm’, vào thời điểm chiến dịch gần kết thúc, những người nội bộ chuẩn bị đẩy thị trường lên với các kho hàng đầy ắp. Vậy là kết thúc chiến dịch và chờ cơ hội tiếp theo.
Điều này được lặp đi lặp lại nhiều lần, ở mọi khung thời gian và mọi thị trường. Nếu chúng ta sử dụng quy tắc nhân quả của Wyckoff, hành động giá ở trên có thể là giai đoạn ‘thứ cấp’ trong một chu kỳ dài hạn hơn nhiều, đó là điều mà tôi sẽ đề cập chi tiết hơn khi chúng ta bắt đầu xem xét đa khung thời gian.
Mọi thứ, như Einstein đã nói, đều là tương đối.
Nếu chúng ta quan sát biểu đồ 50 năm của một thị trường, sẽ có hàng trăm giai đoạn tích lũy trong xu hướng 50 năm. Ngược lại, giai đoạn tích lũy trong một cặp tiền tệ, có thể kéo dài vài giờ hoặc có lẽ chỉ vài ngày.
Và lý do cho sự khác biệt này là do bản chất và cấu trúc của thị trường. Thị trường cổ phiếu là một thị trường rất khác với trái phiếu và hàng hóa. Ví dụ: trong thị trường cổ phiếu, giai đoạn tích lũy có thể kéo dài vài ngày, vài tuần hoặc vài tháng và tôi sẽ đề cập chi tiết điều này khi chúng ta xem xét các đạc điểm của từng thị trường và các ảnh hưởng bên trong và bên ngoài của nó, từ đó tạo ra bản sắc riêng cho một nhà giao dịch theo phương pháp VPA.
Điểm mấu chốt là ở đây. Chỉ cần nhận ra hành động giá và khối lượng tương ứng là có thể xác định điều gì đang diễn ra: những người nội bộ đang thao túng thị trường để chuẩn bị cho một đợt đẩy giá lên cao hơn. Có thể là một đợt di chuyển nhỏ (nguyên nhân và kết quả) do thời gian tích lũy ngắn, hoặc là một xu hướng lớn từ một giai đoạn tích lũy dài hơn. Và nếu bạn nghĩ có lẽ đây là một điều tưởng tượng, hãy để tôi trích dẫn lại lời của Richard Ney, và lần này là từ quyển sách thứ hai của ông, The Wall Street Gang:
“Vào ngày 22 tháng 11 năm 1963, ngày Tổng thống Kennedy bị ám sát, các tổ chức chuyên gia đã lợi dụng thảm kịch đó làm cái cớ (mang tính khách quan) để đẩy hết toàn bộ lệnh mua vào mức giá bán buôn (giá cực rẻ). Sau khi họ đã tích lũy một lượng hàng lớn, họ đóng cửa trong ngày và rời sàn. Điều này đã ngăn các lệnh mua công khai được thực hiện ở mức thấp nhất trong ngày. Ví dụ, chuyên gia môi giới qua điện thoại đã đẩy giá cổ phiếu mà ông ấy nắm giữ từ mức giá $138 xuống còn $130 trong ngày 22 tháng 11. Đến ngày 25 tháng 11, ông ấy mở giao dịch trở lại ở giá $140. Hy sinh sự tin cậy để đổi lấy hiệu quả, nhà môi giới đã thừa nhận rằng ông kiếm được $25.000 cho tài khoản giao dịch của bản thân."
Bất kỳ tin tức nào cũng đều cho họ một lý do hoàn hảo để thao túng thị trường, và không có ngoại lệ. Trong thị trường chứng khoán Hoa Kỳ, cơ hội hoàn hảo chính là mùa phát hành báo cáo thu nhập hàng quý của các doanh nghiệp. Các dữ liệu kinh tế được công bố cũng là một nguồn phong phú, trong khi thiên tai có thể được sử dụng để tạo ra xu hướng dài hạn hơn. Với khoảng thời gian trong ngày, hoạt động tích luỹ được thực hiện rất dễ dàng với các vòng lặp đi lặp lại những phát biểu, bình luận của các chính trị gia, ngân hàng trung ương, cùng với luồng dữ liệu kinh tế công bố hàng ngày. Cuộc sống đối với những người giao dịch nội bộ rất dễ dàng, và thành thật mà nói, nếu có cơ hội, chắc hẳn chúng ta cũng sẽ làm điều tương tự.
GIAI ĐOẠN PHÂN PHỐI
- DISTRIBUTION PHASE
Giai đoạn phân phối hoàn toàn ngược lại với giai đoạn tích lũy. Trong giai đoạn tích lũy, những người nội bộ gom hàng đầy kho của họ để chuẩn bị cho giai đoạn tiếp theo, và như tôi đã nói trước đó, từ ‘chiến dịch’ là từ hoàn hảo để mô tả hoạt động này. Đây là một chiến dịch quân sự không có chỗ cho may rủi, chúng ta sẽ thấy ngay sau đây khi tôi giải thích về những hành động kiểm định thị trường (testing).
Với một kho hàng đầy ắp, những người nội bộ cần phải đẩy giá lên để kích thích những phe mua có phần lo lắng và nóng nảy quay trở lại thị trường. Đây là một lý do tại sao những người nội bộ không dám làm mọi người sợ hãi quá nhiều, vì đơn giản là họ không thể giết con ngỗng đẻ trứng vàng.
Nếu cảm xúc chủ đạo khi có hiệu ứng ‘rung cây’ trong giai đoạn tích lũy là sợ hãi, sợ mất mát, thì công cụ chủ yếu được sử dụng trong giai đoạn phân phối cũng là nỗi sợ hãi, nhưng lần này là nỗi sợ bỏ lỡ một giao dịch tốt. Yếu tố thời điểm là rất quan trọng, vì những người nội bộ đều biết rằng hầu hết các nhà đầu tư và nhà đầu cơ đang lo lắng và mong muốn thấy được càng nhiều tín hiệu xác nhận càng tốt, trước khi tham gia vào thị trường, và khi giá tăng quá cao thì họ lại sợ rằng sẽ bỏ lỡ một xu hướng lớn hơn. Đây là lý do tại sao hầu hết các nhà giao dịch và nhà đầu tư mua ngay đỉnh và bán ngay đáy.
Ở đỉnh của một xu hướng tăng, các nhà giao dịch và nhà đầu tư đã nhìn thấy thị trường di chuyển cao hơn một cách chậm chạp, dồn nén động lượng rồi bứt tốc, và chính tại thời điểm này, họ mua vào cùng với nỗi sợ bỏ lỡ một cơ hội kiếm được “lợi nhuận nhanh chóng”.
Đây chính xác là thời điểm mà những người giao dịch nội bộ đang chuẩn bị dừng lại và đảo chiều xu hướng. Điều tương tự cũng xảy ra tại đáy của giai đoạn tích lũy. Các nhà đầu tư và đầu cơ có thể chưa cảm giác được sự đau đớn và lưỡng lự khi nhìn thấy thị trường giảm giá một cách chậm chạp, nhưng khi động lượng được dồn nén rồi giá rớt xuống nhanh chóng, thì điều này gây ra làn sóng bán tháo trong hoảng loạn. Sự bình tĩnh sau đó được phục hồi và thị trường bắt đầu chuyển sang giai đoạn tích lũy. Tại đây, niềm hy vọng về sự phục hồi của giá cứ nảy sinh rồi biến mất, lặp đi lặp lại. Đây là cách mà những người giao dịch nội bộ thao túng nỗi sợ hãi của nhà giao dịch, và theo nhiều cách chúng ta có thể phản biện rằng thị trường không thể thao túng mọi thứ được mà chỉ là cảm xúc của các nhà giao dịch quá nhạy cảm mà thôi.
Vậy mô hình điển hình thể hiện một giai đoạn phân phối là gì và diễn biến như thế nào?
Thứ nhất, thị trường bứt phá từ cuối giai đoạn tích lũy, tăng dần đều, với khối lượng trung bình. Không có gì vội vàng vì những người nội bộ đã mua với giá bán buôn và bây giờ muốn tối đa hóa lợi nhuận bằng cách xây dựng động lượng tăng giá từ từ, vì phần lớn giai đoạn phân phối sẽ được thực hiện tại đỉnh của xu hướng và ở mức giá cao nhất có thể. Nếu có cơ hội chúng ta cũng sẽ làm như vậy mà thôi.
Bây giờ, hành động bứt phá ra giai đoạn tích lũy sẽ được hỗ trợ bởi những ‘tin tốt’, sau chuyển đổi tâm lý bằng những ‘tin xấu’ để thị trường giảm.
Thị trường tiếp tục tăng, ban đầu thì từ từ, rồi điều chỉnh chút ít, không có gì quá đáng sợ. Dần dần thị trường bắt đầu đẩy nhanh tốc độ, dồn hết sức để chạm đến vùng giá mục tiêu. Tại thời điểm này, giai đoạn phân phối bắt đầu một cách nghiêm túc, khi những người nội bộ chuẩn bị dọn dẹp kho của họ (bán hết số hàng mà họ đã mua trong pha tích lũy) cũng là lúc các nhà giao dịch và nhà đầu tư háo hức nhảy vào, lo sợ bị bỏ lỡ. Dòng tin tốt vẫn tiếp tục xuất hiện và thị trường vẫn tiếp tục tăng.
Những người giao dịch nội bộ hiện có sẵn nguồn để bán cho đối tượng được coi là nạn nhân trong thảm kịch này - những người vui vẻ mua vào bất chấp số lượng, bất chấp giá cả, nhưng họ sẽ rất cẩn thận và không bao giờ bán quá mạnh tay. Nhờ đó, thị trường chỉ dao động trong phạm vi hẹp, thu hút được nhiều phe mua hơn mỗi lần giảm giá. Cuối cùng, hàng trong kho cũng được dọn đi sạch sẽ và chiến dịch phân phối hàng kết thúc. Hình 5.11 minh họa sơ đồ khối lượng và hành động giá điển hình của một giai đoạn phân phối.
Hình 5.11 Giai đoạn phân phối
Ví dụ trong Hình 5.11 mô tả lại những gì đang xảy ra ở đây, và một khi chúng ta bắt đầu nghĩ về hành vi thị trường trên dưới dạng kho hàng đầy hoặc rỗng, thì mọi chuyện sẽ hợp lý và dễ hiểu hơn. Nếu có một kho hàng hóa riêng cần bán với giá cao nhất, thì chúng ta cũng sẽ làm điều này theo cách tương tự mà thôi.
Đầu tiên, hãy đảm bảo rằng chúng ta có đủ hàng và sau đó bắt đầu một chiến dịch tiếp thị để tạo ra sự quan tâm. Tiếp theo, chúng ta sẽ tăng cường tiếp thị và quảng cáo thông điệp bán hàng - có thể sử dụng những người nổi tiếng, lời chứng thực, PR, phương tiện truyền thông hoặc bất cứ thứ gì để truyền tải thông điệp. Một ví dụ gần đây và rất kinh điển về sự cường điệu tiếp thị là quả Acai (giảm cân tức thì và nhanh chóng mà không cần nỗ lực - chỉ cần ăn và đợi kết quả).
Đây là tất cả những gì những người giao dịch nội bộ đang làm, họ chỉ đơn giản là đang chơi đùa với hai yếu tố cảm xúc của thị trường: tham lam và sợ hãi. Chỉ như vậy mà thôi. Tạo ra đủ nỗi sợ, mọi người sẽ bán tháo trong hoảng loạn. Gợi ra đủ lòng tham, đám đông sẽ mua vào bắt chấp. Tất cả đều rất đơn giản và logic, và những người giao dịch nội bộ cần có vũ khí tối thượng để mọi thứ đi theo đúng ý của họ - phương tiện truyền thông.
Chu kỳ tích lũy và phân phối này sau đó được lặp đi lặp lại không ngừng và trên tất cả các khung thời gian. Một số có thể diễn ra trên quy mô lớn, một số khác lại nhỏ hơn, nhưng chúng diễn ra hàng ngày và trên mọi thị trường.
KIỂM ĐỊNH CUNG - TESTING SUPPLY
Một trong những vấn đề lớn nhất mà những người giao dịch nội bộ phải đối mặt khi thực hiện bất kỳ chiến dịch nào là họ không bao giờ có thể chắc chắn rằng tất cả lượng bán ra ngoài thị trường đã được hấp thụ hết sau một giai đoạn tích lũy hay chưa. Điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là họ bắt đầu ra sức đẩy giá lên cao hơn và vấp phải làn sóng bán ngược đối ứng khiến thị trường giảm giá, như vậy họ lại phải vất vỏ thực hiện lại quy trình để đẩy phe bán ra khỏi thị trường. Làm thế nào để những người giao dịch nội bộ giải quyết vấn đề này? Và câu trả lời là: giống như mọi thị trường khác, họ phải kiểm định.
Một lần nữa, điều này không khác gì tung ra một chiến dịch tiếp thị để bán một kho chứa đầy hàng hóa. Các mặt hàng không chỉ phải được định giá chính xác mà còn phải đảm bảo thị trường dễ tiếp nhận, chuẩn bị sẵn sàng mua vào. Theo đó, một chiến dịch tiếp thị kiểm định nhỏ được thực hiện để xác nhận xem chúng ta có đang nắm đúng sản phẩm với giá phù hợp và với thông điệp tiếp thị phù hợp để bán được số lượng lớn hay không.
Những người giao dịch nội bộ cũng cần kiểm định, và khi họ đã hoàn thành giai đoạn tích lũy, họ chuẩn bị đẩy giá lên cao hơn để bắt đầu quá trình bán. Ở giai đoạn này, họ thường quay trở lại các vùng giá gần đây bị bán tháo rất mạnh, để đánh giá phản ứng của thị trường và kiểm tra xem tất cả lượng bán đã được hấp thụ trong giai đoạn tích lũy chưa. Hoạt động kiểm định được thể hiện như trong sơ đồ dưới đây:
Hình 5.12 là một giản đồ giải thích về nguyên lý hoạt động, nếu chúng ta nghĩ theo cách logic thì rõ ràng đây là một chuyện hết sức bình thường.
Hình 5.12 Kiểm định cho tín hiệu khối lượng thấp - Tin tốt!!
Giai đoạn của hành động giá mà chúng ta đang xem xét ở đây xảy ra sau giai đoạn tích lũy, và trước đó nữa thì những người giao dịch nội bộ đã khiến mọi người sợ hãi bán ra bằng cách giảm giá nhanh chóng. Tại đây, khối lượng bán ra cực kỳ lớn. Những người giao dịch nội bộ bắt đầu rung cây để thu hoạch luôn vài quả khó hái xuống, trước khi chậm rãi đẩy giá ra khỏi vùng tích lũy và bắt đầu xu hướng tăng nhẹ nhàng, cuối cùng tạo ra một giai đoạn phân phối tại đỉnh xu hướng.
Ngay tại giai đoạn kiểm định, những người giao dịch nội bộ kéo thị trường về khu vực giá bị bán rất mạnh trước đó, và điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là áp lực bán tái xuất hiện, buộc chiến dịch phải dừng lại.
Để biết điều tồi tệ đó có xảy ra hay không, câu trả lời là thực hiện sự kiểm định khi thị trường đang tăng, như trong sơ đồ ở Hình 5.12.
Thị trường được điều chỉnh giảm trở lại, có thể là sau một tin xấu nào đó, để kiểm tra xem liệu sự kiện này có loại bỏ những phe bán nào còn lại hay không. Nếu khối lượng vẫn ở mức thấp, ngay lập tức chúng ta biết rằng còn lại rất ít phe bán và hầu như tất cả lượng bán đã được hấp thụ trong giai đoạn tích lũy của chiến dịch.
Nếu phe bán vẫn còn tồn tại với số lượng nào đó, thì cây nến sẽ đóng cửa thấp hơn và khối lượng tương ứng sẽ cao hơn trung bình. Người giao dịch nội bộ sử dụng ‘tin tốt’ để đẩy giá tăng trở lại mức mở cửa với khối lượng thấp, sau đó giá tiếp tục lên cao hơn, thì đó là tín hiệu tích cực và đáng được ăn mừng.
Những cuộc kiểm định được gọi là ‘khối lượng thấp’ này xảy ra ở mọi khung thời gian và trên tất cả các thị trường, và là một cách đơn giản để những người giao dịch nội bộ đo lường lượng cung trên thị trường. Vì tại thời điểm này, nếu họ cố gắng tạo ra cầu, nhưng có một lượng dư cung xuất hiện thì sẽ khiến chiến dịch tăng giá tạm dừng.
Trong trường hợp này, kiểm định đã thành công và xác nhận rằng mọi áp lực bán đã được loại bỏ. Hình dạng chính xác và màu sắc của cây nến không quan trọng, chỉ cần thân nến phải hẹp, với bóng nến bên dưới phải sâu.
Từ kết quả tích cực trên, những người giao dịch nội bộ có thể đẩy thị trường lên đến mức giá phân phối mục tiêu với niềm tin rằng tất cả lượng bán cũ hiện đã được hấp thụ hết.
Hình 5.13 Kiểm định cho tín hiệu khối lượng thấp - Tin xấu !!
Tuy nhiên, điều gì sẽ xảy ra nếu kiểm định không thành công và khối lượng tương ứng cao thay vì thấp, đó là một vấn đề. Khi bắt đầu di chuyển thị trường ra khỏi vùng tích lũy và thực hiện bước đầu tiên của kiểm định bằng kéo giá giảm ngược trở lại, điều này đã dẫn đến việc phe bán quay trở lại với số lượng lớn và buộc giá xuống thấp hơn.
Rõ ràng trong chiến dịch này, lực bán từ vùng tích lũy cũ vẫn chưa được hấp thụ hết, vì vậy bất kỳ nỗ lực tăng giá nào sau đó đều có thể gặp khó khăn, thậm chí là thất bại.
Một sự kiện kiểm định thất bại đem lại một thông điệp duy nhất, đó là những người giao dịch nội bộ sẽ phải kéo thị trường xuống một lần nữa, và nhanh chóng loại bỏ những phe bán này. Thị trường vẫn chưa sẵn sàng để tăng thêm, và do đó những người giao dịch nội bộ có nhiều việc để làm trước khi chiến dịch bắt đầu lại. Điều này không khác gì một lần thử nghiệm thất bại trong một chiến dịch quảng cáo. Có lẽ giá của sản phẩm không đúng lắm, hoặc thông điệp tiếp thị không rõ ràng. Dù bằng cách nào, thử nghiệm đã cho thấy có điều gì đó không ổn và cần được giải quyết. Đối với những người giao dịch nội bộ, đó là sự hiện diện của quá nhiều phe bán còn lại trên thị trường.
Chiến dịch ‘dọn dẹp’ ban đầu cần được khởi động lại, để hấp thụ hết những vị thế cũ này. Những người giao dịch nội bộ sau đó sẽ khởi động lại chiến dịch của họ một lần nữa và kiểm tra lại nguồn cung khi thị trường bắt đầu tăng. Với một kiểm định thất bại, chúng ta có thể mong đợi thấy những người giao dịch nội bộ đưa thị trường trở lại khu vực giá đi ngang một lần nữa, để xả áp lực bán này trước khi chuẩn bị bứt phá trở lại, với một kiểm định tiếp theo. Chỉ cần kiểm định tiếp theo cho kết quả khối lượng thấp, áp lực bán đã bị loại bỏ mới chính thức được xác nhận.
Kiểm định là một trong những công cụ quan trọng mà những người giao dịch nội bộ sử dụng, ở tất cả các thị trường. Giống như mọi thứ khác trong VPA, nó là một khái niệm đơn giản, dựa trên logic đơn giản và một khi hiểu khái niệm tích lũy và cấu trúc trên biểu đồ, chúng ta sẽ bắt đầu thấy hành động kiểm định xảy ra ở mọi khung thời gian và trên tất cả các thị trường. Đó là một trong những tín hiệu mạnh mẽ nhất mà bạn sẽ thấy, vì chính những người giao dịch nội bộ đang chuyển tải một thông điệp rõ ràng rằng thị trường sắp bứt phá và tăng cao hơn.
Trong ví dụ Hình 5.13, những người giao dịch nội bộ đang kiểm tra áp lực bán còn lại trên thị trường, thường được gọi là ‘lượng cung’, sau giai đoạn tích lũy. Với một kho hàng đầy, tất cả họ đã sẵn sàng triển khai chiến dịch và bước cuối cùng là kiểm tra xem tất cả lượng bán ở các mức giá này đã được hấp thụ hết chưa.
Trong trường hợp này thì không. Tuy nhiên, một khi kiểm định được lặp lại và xác nhận với khối lượng thấp, thị trường sẽ tăng cao hơn.
KIỂM ĐỊNH CẦU
Vậy còn kịch bản ngược lại là gì, khi chuẩn bị kết thúc giai đoạn phân phối? Trong trường hợp này, điều cuối cùng mà những nhà giao dịch nội bộ muốn là bắt đầu chiến dịch nhập kho trở lại (đẩy giá xuống và thiết lập giai đoạn tích luỹ), muốn như vậy, họ cần phải quan sát áp lực từ phe mua tại vùng giá phân phối này.
Một lần nữa, bài kiểm tra khác được thực hiện để đảm bảo rằng tất cả áp lực mua (nhu cầu) đã được hấp thụ trong giai đoạn phân phối, và một cuộc kiểm định cầu bắt đầu khi chiến dịch đang diễn ra.
Hình 5.14 Kiểm định cho tín hiệu khối lượng thấp - Tin tốt!!
Trong trường hợp này, chiến dịch phân phối đã tiến hành được một thời gian. Những người giao dịch nội bộ đã chuyển thị trường từ mức giá bán buôn (vùng tích lũy) sang mức giá mục tiêu - giá bán lẻ (vùng phân phối), và hiện đang hồ hởi bán hàng trên các làn sóng tin tức tích cực hỗ trợ tăng giá. Các nhà đầu tư và nhà đầu cơ đang đổ xô mua vào, vì sợ họ bỏ lỡ cơ hội vàng và được thúc đẩy bởi lòng tham. Những người giao dịch nội bộ kéo thêm nhu cầu bằng cách hạ giá và dần dần dọn sạch hàng trong kho.
Cuối cùng, khi chiến dịch hoàn tất, đã đến lúc bắt đầu giai đoạn tiếp theo: di chuyển thị trường xuống thấp hơn, và khi xu hướng mới bắt đầu phát triển, hành động giá kéo ngược trở lại các khu vực mà trước kia tập trung một lượng mua lớn. Họ cần phải kiểm tra, mà lần này là kiểm tra nhu cầu. Nếu nhu cầu thấp, nghĩa là tất cả lượng mua đã được hấp thụ trong giai đoạn phân phối như chúng ta có thể thấy trong giản đồ ở Hình 5.14.
Đến đây chúng ta đã kết thúc giai đoạn phân phối. Các nhà kho hầu như trống rỗng, và giai đoạn tiếp theo là giảm mạnh để lặp lại quá trình và chuyển sang giai đoạn tích lũy một lần nữa.
Khi giai đoạn phân phối kết thúc, những người giao dịch nội bộ muốn đảm bảo rằng không còn lượng cầu nào tồn tại ở các khu vực từng được mua rất mạnh trong giai đoạn bắt đầu phân phối. Một lần nữa, họ thử nghiệm. Thị trường được đẩy lên bằng một số tin tức tích cực, và nếu không có nhu cầu, thì giá đóng cửa sẽ trở lại gần giá mở cửa, với khối lượng rất thấp. Đây là điều mà người giao dịch nội bộ muốn thấy: không có nhu cầu, thể hiện bằng khối lượng thấp.
Bây giờ họ có thể an toàn để bắt đầu đẩy thị trường xuống thấp hơn một cách nhanh chóng, vì họ cân bổ sung lại kho hàng của mình.
Hình 5.15 chắc chắn không phải là những gì người giao dịch nội bộ muốn thấy khi họ chuẩn bị đưa giá rời khỏi vùng phân phối. Thị trường tăng lên và phe mua tràn vào vì cho rằng xu hướng tăng giá được thiết lập để tiếp tục và vẫn tăng cao hơn. Như đã nói từ trước, nếu kiểm định không thành công thì chiến dịch đẩy giá theo hướng đã định phải tạm dừng và những người giao dịch phải quay trở lại khu vực phân phối cũng như loại bỏ những phe mua này ra khỏi thị trường bằng cách sử dụng các quy trình giống như trước đây. Sau khi hoàn tất, sau đó một cuộc kiểm định tiếp theo sẽ được thực hiện và nếu với khối lượng thấp, thì xu hướng giảm chính thức hình thành, dồn tốc độ đẩy giá ra khỏi vùng phân phối và bẫy các nhà giao dịch tại mức này.
Hình 5.15 Kiểm định cho tín hiệu khối lượng cao - Tin xấu!!
Bây giờ chúng ta đã biết cần phải tìm những gì, bạn sẽ bắt gặp giá được kiểm định ở mọi lúc, một khi hình thành xong giai đoạn tích lũy hoặc phân phối. Chúng ta thậm chí có thể thấy một loạt các sự kiện kiểm định, có lẽ lần đầu tiên có khối lượng thấp, tiếp theo là lần thứ hai hoặc thứ ba có khối lượng thấp hơn. Điều này chỉ đơn giản là xác nhận những người giao dịch nội bộ đang chuẩn bị giai đoạn tiếp theo của một chiến dịch. Cụ thể là khi giá thoát ra khỏi khu vực tắc nghẽn (vùng giá đi ngang) được tạo ra trong hai giai đoạn tích lũy hoặc phân phối, chúng ta có thể yên tâm rằng giai đoạn tiếp theo đang được tiến hành.
Trước khi chuyển sang xem xét hoạt động cao trào mua (buying climax) và cao trào bán (selling climax), tôi nghĩ rằng cần phải trả lời một số câu hỏi mà cả nhà đầu tư và nhà đầu cơ đang cảm thấy khó hiểu.
Câu hỏi đầu tiên là - tại sao thị trường mất nhiều thời gian để tăng hơn là giảm, và điều này có liên quan đến những người giao dịch nội bộ không?
Câu hỏi thứ hai là - những chu kỳ nhập đầy kho và dọn sạch kho này thường kéo dài ở những khung thời gian nào?
Hãy để tôi trả lời câu đầu tiên, và câu trả lời này cũng dẫn đến câu thứ hai. Người giao dịch nội bộ chỉ có hai mục tiêu. Thứ nhất là khiến chúng ta sợ hãi và thứ hai là khiến chúng ta tham lam. Họ không có mục đích nào trong cuộc sống ngoài việc tạo ra những phản ứng cảm xúc để chắc rằng chúng ta luôn làm sai việc sai thời điểm, còn họ thì làm đúng việc đúng thời điểm.
Một trích dẫn của Ngài John Templeton vĩ đại đã quá cố:
“Hãy chú ý đến những lời của nhà tiên phong vĩ đại trong lĩnh vực phân tích chứng khoán Benjamin Graham: Mua khi hầu hết mọi người... bao gồm cả các chuyên gia... bi quan và bán khi họ lạc quan tích cực”.
Hãy suy nghĩ về điều này một cách hợp lý và cố gắng trả lời câu hỏi đầu tiên. Thị trường rơi tự do, với sự bán tháo hoảng loạn của các nhà đầu tư và nhà giao dịch. Sau đó là giai đoạn bình tĩnh khi thị trường đi ngang trong giai đoạn tích lũy, vì các kho hàng được tích trữ sẵn sàng cho đợt tăng giá cao hơn.
Bây giờ, ở giai đoạn này, hãy nhớ, từ quan điểm của người giao dịch nội bộ, họ khiến tất cả mọi người sợ hãi đến chết điếng, và điều cuối cùng họ muốn làm là đột ngột đẩy thị trường tăng vọt theo hướng ngược lại. Điều này sẽ sớm khiến mọi nhà đầu tư và nhà đầu cơ bỏ chạy ra khỏi thị trường. Rốt cuộc, nếu các nhà giao dịch trải qua quá nhiều cảm xúc, thì họ sẽ sớm mất cả chì lẫn chài, cuối cùng ra về tay trắng. Giữ thị trường bình tĩnh trong hoàn cảnh này là cần thiết, cần phải âm thầm bắt đầu xây dựng niềm tin trở lại, di chuyển giá cao hơn một cách ổn định mà không khiến bất kỳ ai sợ hãi mà ra khỏi thị trường, và dần dần thu hút phe mua quay trở lại.
Chẳng bao lâu, đợt bán tháo hoảng loạn trước đó rơi vào lãng quên khi thị trường tăng trở lại và niềm tin từ từ được phục hồi. Điều này cũng phù hợp với ý định của những người giao dịch nội bộ, vì họ có đầy đủ hàng trong kho để bán, và chắc chắn không muốn thấy một lượng mua lớn xuất hiện sớm khi đang đẩy giá lên cao lên. Ở giai đoạn này, mục tiêu là tối đa hóa lợi nhuận và họ chỉ thu được lợi nhuận lớn nhất khi đẩy giá lên mức giá phân phối mục tiêu - mức giá bán lẻ. Thật điên rồ nếu đột nhiên tăng giá lên mức bán lẻ, vì nhiều nhà đầu tư sẽ cảm thấy họ đã bỏ lỡ và sẽ không tham gia tiếp nữa.
Chiến lược ở đây là thực hiện một trong những cách xây dựng lòng tin bằng cách đưa thị trường lên cao hơn một cách từ từ, và sau đó dần dần di chuyển nhanh hơn, tạo ra niềm tin trong tâm trí nhà đầu tư hoặc nhà đầu cơ rằng đây là một thị trường đang có động lực, luôn tăng tốc và là một cơ hội không thể bỏ qua để kiếm một số tiền dễ dàng.
Sau đó xu hướng bắt đầu dồn lực, tăng cao hơn theo từng bước, tạm dừng, đảo chiều một chút, thu hút phe mua, hấp dẫn họ, rồi tiếp tục di chuyển cao hơn, cho đến gần khu vực phân phối, thị trường bắt đầu tăng tốc khi phe mua vỡ òa trong cảm xúc tham lam và nỗi sợ bỏ lỡ cơ hội khiến họ phải nhảy vào.
Trong suốt hành trình đi lên, hàng được đưa ra khỏi kho dần dần, nhưng cũng có lúc được nhập vào lại từ những đợt đảo chiều nhỏ khi phe bán tiến hành chốt lời làm giá giảm nhẹ, điều này cũng giúp duy trì các mức giá cho giai đoạn cuối của chiến dịch.
Đây là hành trình đầy cảm xúc trong tầm kiểm soát của những người giao dịch nội bộ. Đây là lý do tại sao thị trường tăng bền vững với đáy sau cao hơn đáy trước, đỉnh sau cao hơn đỉnh trước, lúc thì dừng lại vào đảo chiều chút ít trên suốt đường đi. Đây là một bài tập xây dựng niềm tin, được thiết kế để khôi phục sự tự tin sau nỗi sợ hãi, và thay thế nó bằng một cảm xúc khác - lòng tham. Đây là hai đòn bẩy mà những người giao dịch nội bộ sở hữu (lòng tham - nỗi sợ), và họ đã quen dùng nó để tàn phá, và vũ khí duy nhất bạn có trong kho của mình là VPA.
Khi tham lam biến mất, sự sợ hãi sẽ đến - một lần nữa.
Lúc kho hàng của họ hiện đang trống rỗng, những người giao dịch nội bộ cần phải quay trở lại ‘đáy’ và nhập đầy hàng càng nhanh càng tốt. Và nếu ở vị trí đó, chúng ta cũng sẽ làm như vậy mà thôi.
Tuy nhiên, những người giao dịch nội bộ bây giờ không có gì để bán, cách duy nhất để kiếm tiền nhanh là nạp lại kho và bắt đầu một chiến dịch khác. Thị trường lao dốc, bán tháo trong hoảng loạn xảy ra, nỗi sợ hãi được kích hoạt và các kho hàng lại được lấp đầy. Và cứ thế chu kỳ lặp lại, hết lần này đến lần khác.
Hình ảnh so sánh tốt nhất mà tôi có thể nghĩ đến bây giờ là một chiếc cầu trượt xoáy cũ ở các khu vui chơi giải trí. Phải nỗ lực để lên đến đỉnh, đi bộ lên tất cả các bậc thang, nhưng khi trượt xuống chỉ cần một máng trượt, rất nhanh chóng. Đó là cách thị trường hoạt động. Lên bằng thang bộ và xuống bằng thang máy. Trò chơi ‘Con rắn và cái thang’ (snakes and ladders) cũng tương tự như vậy, lên thang thì lên một cách từ từ, nhưng xuống bằng con rắn thì rất nhanh.
Chỉ khi bắt đầu nghĩ về thị trường theo những thuật ngữ này, chúng ta mới bắt đầu nhận ra cách mà bất kỳ ai, ngoài những người giao dịch nội bộ, đang kiếm được tiền. Những người giao dịch nội bộ phải cẩn thận, vì lý do đơn giản nếu hành động giá biến động liên tục và không ngừng, các nhà giao dịch và nhà đầu tư sẽ tìm kiếm cơ hội đầu tư và đầu cơ ở nơi khác.
Cũng giống Goldilocks và món cháo mà cô ấy nấu13, phương châm ở đây là cháo phải ‘không quá nóng cũng không quá lạnh’. Những người giao dịch nội bộ đã học được kỹ thuật này và rèn giũa qua nhiều thập kỷ. Hầu hết các nhà đầu tư và đầu cơ đều thua lỗ. Bạn thật may mắn. Vào cuối quyển sách này, bạn sẽ trở thành một chuyên gia VPA và có thể nhìn nhận ra tất cả các mánh khóe mà họ sử dụng.
Họ di chuyển trong tầm mắt và rất dễ phát hiện, tất cả những gì chúng ta phải làm là giải thích các tín hiệu và sau đó theo dõi họ. Nó thật sự đơn giản.
Chuyển sang câu hỏi thứ hai, đó là chu kỳ này được lặp lại bao lâu một lần? Và tôi sẽ trao cho bạn một bí mật. Đây cũng là câu hỏi mà tôi đã muốn hỏi Albert Labos cách đây nhiều năm khi chúng tôi ngồi trong một khu vực cũ kỹ tại The President để nghiên cứu về các nhà tạo lập thị trường (như ông ấy đã gọi) và các mánh khóe của họ. Tôi thực sự đã viết ra câu hỏi này và hỏi bạn học trong lớp, nhưng anh ấy cũng không biết câu trả lời.
Điều tôi nghĩ lúc đó là thế này. Tôi hiểu đã hiểu rõ về các giai đoạn tích lũy và phân phối, nhưng sau đó tôi bắt đầu suy nghĩ. Hãy nhớ rằng khi quan sát các giao dịch chỉ số cổ phiếu, về cơ bản đều là các chu kỳ dài. Tôi tự nghĩ nếu là 10,15 hoặc 20 năm, thì đây là một khoảng thời gian dài cho một nhà tạo lập thị trường chờ đợi để kiếm lợi nhuận từ việc mua và bán của mình.
Từ sự sụp đổ thị trường này đến sự sụp đổ khác có lẽ nó kéo dài hàng thập kỷ? Lúc đó tôi không dám đặt câu hỏi này, và bây giờ tôi ước mình đã làm như vậy.
Câu trả lời đơn giản là các chu kỳ này xảy ra trong tất cả các khung thời gian từ biểu đồ tick đến biểu đồ 1 phút, 15 phút, hàng giờ, hàng ngày, hàng tuần và hàng tháng. Cách tốt nhất để nghĩ về điều này là tưởng tượng một bộ búp bê Nga lồng vào nhau.
Con búp bê nhỏ nhất, vừa với bên trong một con búp bê lớn hơn một chút, vừa bên trong một con búp bê lớn hơn, v.v. Biểu đồ giá cũng tương tự như vậy nếu suy nghĩ về các chu kỳ. Chu kỳ tích lũy và phân phối trên biểu đồ một phút, có thể kéo dài vài giờ và là một phần của chu kỳ lớn hơn trên biểu đồ khung thời gian cao hơn, bản thân chu kỳ này sẽ là một phần của chu kỳ lớn hơn, v.v. Đây là một khái niệm quan trọng cần nắm bắt, vì nó thể hiện hai khía cạnh quan trọng liên quan đến hành vi thị trường.
Đầu tiên, các chu kỳ này xảy ra trong tất cả các khung thời gian và thứ hai, bằng cách xem hành động giá trên nhiều khung thời gian, bạn sẽ bắt đầu thấy các chu kỳ này phát triển, chỉ ra và xác nhận lẫn nhau. Một chu kỳ đã bắt đầu trên biểu đồ 1 phút, sẽ được thiết lập trên biểu đồ 5 phút và có thể phát triển trên biểu đồ 15 phút.
Hãy để tôi trích dẫn lại từ Richard Ney và quyển sách The Wall Street Gang của ông, quyển sách mà mọi nhà giao dịch và nhà đầu tư nên cố gắng đọc. Chúng chứa rất nhiều thông tin và cung cấp cho chúng ta một góc nhìn rộng về khối lượng và giá cả, cùng với một cái nhìn tuyệt vời về cách các chuyên gia thao túng thị trường. Tuy quyển sách chủ yếu tập trung vào cổ phiếu, nhưng các nguyên tắc vẫn giống nhau và phù hợp với tất cả các thị trường. Trong thị trường cổ phiếu, đó là các chuyên gia, người giao dịch nội bộ hoặc tạo lập thị trường, trong thị trường hợp đồng tương lai là các nhà điều hành lớn (large operator), và trong thị trường ngoại hối giao ngay lại là các nhà tạo lập thị trường.
Đây là những gì ông đã nói về các khung thời gian:
“Các mục tiêu của chuyên gia trên thị trường có thể được phân loại theo ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Vì vậy, chúng ta có thể thấy rằng có ba cách phân loại theo phạm vi rộng để chúng ta có thể xác định các biến động giá của thị trường’’.
Sau đó ông tiếp tục nói...
“Xu hướng ngắn hạn. Có thể kéo dài từ hai ngày đến hai tháng. Trong xu hướng này có thể có những xu hướng ngắn hạn hơn, thậm chí kéo dài không quá vài giờ. Tầm quan trọng của xu hướng ngắn hạn là trong trường hợp này, chuyên gia giải quyết các vấn đề hàng tồn kho hàng ngày, trong khi vẫn giữ vững các mục tiêu trung hạn và dài hạn của mình. Có vẻ như xu hướng ngắn hạn là xu hướng mà các chuyên gia tạo dần một cái bẫy trong trung và dài hạn cho nhà đầu tư”.
“Dải băng giá chứng khoán như chiếc kính hiển vi để nhận biết các kỹ thuật phân phối khối lượng lớn hàng tồn kho trên đỉnh xu hướng và tích lũy khối lượng lớn hàng tồn kho dưới đáy xu hướng của chuyên gia trên thị trường”.
“Không thể chỉ nhìn vào dải băng giá để xem xét và hy vọng xác định được xu hướng dài hạn trên thị trường. Người ta chỉ có thể hiểu dải băng và giải mã thông tin của nó bằng những trải nghiệm được định hình qua trí nhớ - hoặc thông qua việc sử dụng biểu đồ. Theo cách nói đó, biểu đồ ngắn hạn và dài hạn cung cấp cả cái nhìn vi mô và vĩ mô về những gì đã xảy ra. Khi phân tích, chúng ta cần cả hai để đưa ra quyết định hợp lý về mặt tài chính”.
Lý do tôi đưa ra những trích dẫn trên từ quyển sách của ông ở đây là vì nó tóm tắt ngắn gọn những điểm tôi muốn truyền đạt trong chương này.
Hãy nhớ rằng, quyển sách này được xuất bản vào năm 1974, khi dải băng giá vẫn còn được sử dụng, nhưng chúng ta đã có thể thay thể băng giá bằng biểu đồ điện tử, trên ở khung thời gian ngắn. Các khái niệm và nguyên tắc đều giống nhau. Chúng ta sử dụng khung thời gian ngắn hoặc cực ngắn như là kính hiển vi để soi thị trường, sau đó chuyển sang khung thời gian dài hạn hơn để cung cấp góc nhìn rộng hơn về mối quan hệ khối lượng và giá cả.
Tất cả chỉ là tương đối, vì vậy đối với một nhà giao dịch ngắn hạn, khung thời gian họ cần có thể là biểu đồ 1 phút, 5 phút và 15 phút. Một nhà giao dịch theo sóng (swing trader) có thể xem xét biểu đồ 30 phút, 60 phút và có lẽ là 240 phút. Nhà đầu tư theo xu hướng có thể sử dụng biểu đồ hàng ngày, hàng tuần và hàng tháng.
Do đó, bất kể chiến lược giao dịch nào và thị trường nào: cổ phiếu, hàng hóa, trái phiếu hay ngoại hối, điểm mấu chốt để thành công với tư cách một nhà đầu cơ/ nhà đầu tư là các mối quan hệ VPA nên được sử dụng kết hợp với nhiều khung thời gian. Trên một biểu đồ duy nhất, VPA vô cùng mạnh mẽ, nhưng khi phân tích ‘ba góc nhìn’ (triangulated) bằng cách sử dụng các khung thời gian ngắn hơn, điều này sẽ cung cấp cho bạn cách tiếp cận ba chiều đối với thị trường.
Không có gì sai khi chỉ tập trung vào một biểu đồ, nhưng hãy nhớ hình ảnh so sánh về đường cao tốc ba làn tôi đã đề cập ở phần trước, nơi chúng ta đang chạy ở làn đường giữa với kính chiếu hậu được gắn ở hai bên cho chúng ta quan sát làn đường nhanh và chậm, điều này sẽ hỗ trợ bạn xây dựng sự tự tin trong khi học hỏi và quan trọng hơn khi bạn bắt đầu giao dịch trực tiếp.
Để kết thúc chương này, tôi muốn tập trung vào hai khái niệm cuối cùng về hành vi của người giao dịch nội bộ, đó là cao trào bán (selling climax) và cao trào mua (buying climax), trước khi sắp xếp toàn bộ chu kỳ lại với nhau trong một số sơ đồ đơn giản để hoàn chỉnh các nguyên tắc chung về VPA.
CAO TRÀO BÁN (THE SELLING CLIMAX)
Như tôi đã trình bày trước đó, có một sự nhầm lẫn về hai khái niệm này. Trong quá khứ, hầu hết những người chia sẻ về chủ đề này đều viết từ góc độ cá nhân, cụ thể là khi chúng ta mua hoặc bán trên thị trường. Tuy nhiên, trên lập trường của những người giao dịch nội bộ thì đó là điều họ muốn chúng ta làm. Mục tiêu duy nhất của họ là khiến chúng ta mua trong giai đoạn phân phối và bán trong giai đoạn tích lũy.
Về khía cạnh ‘ai đang làm gì’ trong hai giai đoạn này, thì trong giai đoạn tích lũy, ‘đám đông’ đang bán và những người giao dịch nội bộ đang mua, ngược lại trong giai đoạn phân phối, ‘đám đông’ đang mua và những người giao dịch nội bộ đang bán.
Quyển sách này được viết dưới góc nhìn của những người giao dịch nội bộ, các chuyên gia trên sàn giao dịch, các nhà điều hành lớn, các nhà tạo lập thị trường, và hy vọng rằng giống như tôi, bạn cũng muốn theo dõi họ. Đây là nguyên tắc cơ bản của VPA. Như Albert đã từng nói, chúng ta cần phải mua khi họ đang mua và bán khi họ đang bán. Đơn giản.
Khi tôi mô tả về khái niệm cao trào bán, đối với tôi, đây là lúc những người giao dịch nội bộ đang bán hàng và xảy ra trong giai đoạn phân phối của chiến dịch. Cao trào mua là khi những người giao dịch nội bộ đang mua trong giai đoạn tích lũy. Đối với tôi, điều này hợp lý hơn. Có thể bạn thắc mắc về ngữ nghĩa, nó rất quan trọng, và tôi muốn làm rõ nó ở đây, vì có nhiều người đề cập đến những hành động giá này theo cách khác.
Cụ thể, một hành động cao trào bán xuất hiện tại đỉnh xu hướng tăng, còn cao trào mua xuất hiện tại đáy xu hướng giảm, đều phản ánh hành động của những người giao dịch nội bộ, không phải của đám đông. Cao trào bán làm tiếng ‘reo hò cuối cùng’ trước khi những người giao dịch nội bộ đảo chiều làm cho giá giảm. Đó là đỉnh điểm của mọi nỗ lực đẩy giá lên, là thời điểm mà tại đó nhà kho gần như trống rỗng và cần một nỗ lực lớn cuối cùng để buộc thị trường tăng cao hơn nữa, thu hút những nhà đầu cơ và nhà giao dịch đang bồn chồn - những người đã chờ đợi thời điểm thích hợp để nhảy vào, cuối cùng không thể đợi lâu nữa vì sợ bỏ lỡ cơ hội và mua vào.
Điều này xảy ra hai hoặc ba lần với khối lượng lớn khi thị trường đóng cửa trở lại bằng với giá mở cửa và vào cuối giai đoạn phân phối. Sau cao trào bán, thị trường bứt phá nhanh chóng giảm sâu hơn. Phe mua này, cùng với tất cả những người khác bị mắc kẹt ở mức giá này, khi những người giao dịch nội bộ đã đưa thị trường ra khỏi khu vực phân phối và đi xuống dưới ‘cầu trượt xoáy’ để bắt đầu vòng tích lũy kế tiếp.
Hãy xem một ví dụ điển hình về việc cao trào bán đẩy giá đến giai đoạn cuối của quá trình phân phối, và đây cũng là một màn bắn pháo hoa đánh dấu sự kết thúc của sự kiện này.
Một lần nữa, hình 5.16 chỉ đơn giản là một sơ đồ về những gì chúng ta mong đợi trong cao trào bán. Những người giao dịch nội bộ đã đưa thị trường đến mức giá mục tiêu của họ, tại đó họ đang bán hàng tồn kho với giá bán lẻ cho phe mua hồ hởi tin rằng thị trường này sắp bay lên mặt trăng.
Những người giao dịch nội bộ rất vui khi có thể bán được hết cho người cần mua, đẩy giá xuống thấp hơn, sau đó kéo ngược trở lại để thu hút thêm nhu cầu mua vào, cứ thế cho đến khi họ bán hết hàng trong kho.
Hình 5.16 Cao trào bán - Màn trình diễn pháo hoa
Ở giai đoạn này, hành động thị trường trở nên dễ biến động hơn khi giá tăng và đóng cửa tại mức mở cửa, với lượng mua tràn vào thị trường ngày càng nhiều vì sợ rằng sẽ bỏ lỡ chặng tiếp theo trong xu hướng tăng giá hiện tại. Nhưng rất tiếc, đợt sóng tiếp theo lại theo hướng ngược lại.
Cuối cùng, hàng trong kho đã được dọn sạch sẽ, thị trường bán tháo, giảm thê thảm và thoát ra khỏi giai đoạn phân phối. Nếu là một chuyên gia phân tích VPA, chúng ta sẽ dễ dàng tìm ra manh mối cho những hành động này.
Cụ thể, chúng ta sẽ thấy khối lượng lớn kết hợp với một thanh nến có bóng trên dài cùng với thân hẹp, đây cũng là một trong những sự kết hợp mạnh mẽ nhất giữa hành động giá và khối lượng mà chúng ta từng thấy trên biểu đồ.
Đương nhiên, tôi sẽ trình bày chi tiết vấn đề này ở phần sau của quyển sách.
Đây là thanh nến có ‘bóng nến trên’ mà chúng ta đã quan sát ở chương 3 và như tôi đã giải thích, chúng có sức mạnh vô cùng lớn và tiết lộ rát nhiều điều, đặc biệt là khi kết hợp với khối lượng. Những người giao dịch nội bộ đang tạo ra một nỗ lực cuối cùng để bán hết hàng trong kho của họ và đẩy giá cao hơn vào đầu phiên. Phe mua tràn vào, đưa thị trường lên cao hơn vì sợ bỏ lỡ, với khối lượng cao hoặc cực cao, trước khi những người giao dịch nội bộ hạ giá thị trường khiến các nhà giao dịch bị kẹt lại, bằng cách bán ra để chốt lời. Một số nhà giao dịch sẽ cảm thấy thị trường đang ‘mua quá nhiều’ ở mức này.
Hành động giá này được lặp lại nhiều lần, với những người giao dịch nội bộ đáp ứng hết các nhu cầu mua, mỗi lần như vậy giá được đẩy lên cao hơn, trước khi giảm trở lại, đóng cửa thấp hơn hoặc bằng giá mở cửa do những người chốt lời đóng vị thế.
Màu sắc của thân nến không quan trọng. Quan trọng là chiều dài của bóng nến, tính chất lặp đi lặp lại của hành động giá này và khối lượng cao tương ứng. Nếu xuất hiện tín hiệu trên, bạn có thể biết rằng thị trường đã sẵn sàng tăng tốc và khi các kho hàng đều trống, phản ứng giá sẽ diễn ra nhanh thôi. Những người giao dịch nội bộ hiện tại đã đưa giá đến đỉnh của cầu trượt xoáy, bất cứ khi nào cũng có thể trượt xuống trở về mặt đất để bắt đầu một vòng tích lũy mới.
Khi thấy hành động giá này, sau giai đoạn phân phối, tốt nhất là bạn nên ở trước màn hình - sẵn sàng và chờ đợi. Bây giờ chúng ta hãy xem xét trường hợp ngược lại của cao trào bán: cao trào mua. Đây cũng là một màn bắn pháo hoa đánh dấu sự kết thúc của giai đoạn tích lũy, và báo hiệu sự bắt đầu của xu hướng tăng cao hơn.
Cao trào mua đơn giản chỉ là sự kiện ngược lại với cao trào bán. Những người giao dịch nội bộ đã làm cho thị trường giảm giá, sự hoảng loạn đã được kích hoạt và những phe bán lo sợ đang đóng các vị thế. Xem Hình 5.17.
Những người giao dịch nội bộ sau đó chuyển sang giai đoạn tích lũy để bổ sung lại kho hàng và di chuyển giá lên xuống trong một phạm vi hẹp, để loại bỏ những người bán ngoan cường còn sót lại.
Càng về cuối giai đoạn này, những người giao dịch nội bộ càng khiến giá giảm một cách nhanh chóng để loại bỏ thêm một số người bán nữa, trước khi kéo giá lên lại và đóng cửa gần với mức mở cửa bằng hoạt động mua lại của chính họ, những người săn giá rẻ cũng nhận thấy rằng thị trường đang ‘quá bán’ tại mức giá này.
Điều này được lặp đi lặp lại nhiều lần, hoạt động bán tháo tiếp tục diễn ra trong sự hoảng loạn của các nhà đầu tư và nhà đầu cơ. Họ treo cờ trắng đầu hàng.
Những người giao dịch nội bộ hiện đã sẵn sàng, kho hàng của họ đã đầy ắp, chuẩn bị cuộc hành quân và bắt đầu xu hướng tăng giá cao hơn đến mục tiêu phân phối.
Một khi chúng ta chấp nhận thực tế là tất cả các thị trường đều bị thao túng theo cách này hay cách khác, thì phần còn lại của câu chuyện sẽ cực kỳ dễ hiểu.
Những điều mà tôi đề cập ở trên đều hết sức hợp lý và thông thường, nhưng đừng nhầm tưởng rằng các cơ quan quản lý hành pháp không có liên quan gì trong câu chuyện này. Không có gì thay đổi nhiều kể từ thời đại của Wyckoff và Ney, để tôi trích dẫn lại từ quyển ‘Tạo lập thị trường’ xuất bản năm 1975.
Đây là cuộc trò chuyện qua điện thoại của Richard Ney với một quan chức của SEC (ủy ban Chứng khoán và Giao dịch Hoa Kỳ). SEC là cơ quan quản lý toàn bộ lĩnh vực tài chính ở Hoa Kỳ.
Hãy nhớ rằng, lúc bấy giờ là năm 1975, và đây là những gì đã được nói trong cuộc điện đàm, khi viên chức này được hỏi về việc giám sát các chuyên gia trên sàn giao dịch cũng như cách quản lý họ:
“Các chuyên gia thuộc quyền quản lý của sở giao dịch. Chúng tôi không quá quan tâm đến họ. Họ không được quản lý trực tiếp từ ủy ban. Tất cả đều hoạt động theo quy chế tự quản. Họ có các quy tắc riêng - ủy ban chỉ chấp thuận mà thôi. Chỉ khi ủy ban cảm thấy có điều gì đó không phù hợp thì mới có ngoại lệ xảy ra. Chúng tôi giám sát các nhà môi giới (broker-dealers) nhưng không bao giờ lên Sàn giao dịch để kiểm tra các chuyên gia”.
Vậy có gì thay đổi không?
Trong thực tế, rất ít thay đổi ngoại trừ việc giao dịch hiện nay chủ yếu là điện tử, và nghiệp vụ HFT (Giao dịch tần số cao) - một trong nhiều vấn đề mà SEC đang phải đối mặt.
Có những trường hợp thông thường như các cá nhân và công ty phải giải trình với SEC về hành động của họ trên thị trường, hoặc một số chủ thể khác lại có cách kiểm soát tình hình cũng như để trấn an công chúng rằng thị trường được điều tiết theo cách công bằng và cởi mở.
Đáng buồn thay, như tôi đã hy vọng ở các chương trước, việc sử dụng VPA sẽ trực tiếp nhanh chóng chứng minh cho bạn thấy, điều này chắc chắn không phải vậy. Những người giao dịch nội bộ quá kinh nghiệm và ma mãnh để không phải mất cả chì lẫn chài. Bây giờ thì họ đã nghĩ ra những cách mới và lịch sự hơn để thao túng giá cho mục đích của riêng họ.
Hãy để tôi trích dẫn từ một bản tin tức gần đây của SEC về vấn đề HFT14:
“Có một số loại kỹ thuật HFT khác nhau và Bản công bố khái niệm của SEC [6] đã chia nhỏ chúng thành bốn loại chiến lược chính:
Tạo lập thị trường: giống như hoạt động tạo lập thị trường truyền thống, chiến lược này cố gắng kiếm tiền bằng cách cung cấp thanh khoản cho cả hai bên mua và bán đồng thời hưởng chênh lệch giá (spread).
Kinh doanh chênh lệch giá (Arbitrage): Giao dịch khi cơ hội kinh doanh chênh lệch giá xuất hiện (ví dụ: do thị trường định giá sai giữa các Chỉ số, quỹ ETF hoặc ADR (Chúng chỉ tiền gửi của Mỹ) và các công cụ phái sinh khác của chúng.)
Cấu trúc (Structural): Các chiến lược này tìm cách tận dụng mọi lỗ hổng cấu trúc của thị trường hoặc một số bên tham gia nào đó, bao gồm các hoạt động kinh doanh chênh lệch giá có độ trễ (latency arbitrage) hoặc nhồi giá (quote stuffing).
Định hướng (Directional): Các chiến lược này cố gắng đón dầu - hoặc kích, hoạt - một động thái giá và bao gồm tiên đoán lệnh giao dịch (order anticipation) và kích thích động lượng (momentum ignition)."
Và ngày công bố báo cáo này? - cuối năm 2012.
Tuy không muốn lao vào vấn đề này, nhưng tôi biết rằng một số người đọc quyển sách này có thể cho là tôi đang nói về ‘thuyết âm mưu’. Tôi có thể đảm bảo với bạn rằng tôi không bao giờ làm việc đó.
Như chính Ney đã chỉ ra:
“Hầu hết những người trong Chính phủ đang thực hiện việc điều tra đều tri ân sở giao dịch chứng khoán bằng cách này hay cách khác (thông qua đóng góp cho chiến dịch hoặc thông qua các công ty luật của họ), hoặc hy vọng (nếu họ là ủy viên và chủ tịch của SEC) sẽ được làm việc trong lĩnh vực chứng khoán vào một ngày không xa, và kết quả là không có bất thường gì từ các cuộc điều tra đó."
Hãy để tôi kết thúc chương này bằng cách tạo một giản đồ mà tôi hy vọng sẽ biến tất cả mọi thứ trở nên gọn gàng nhất có thể.
Đây là chu kỳ thị trường hoàn chỉnh, mà tôi thích gọi là - ‘một ngày làm việc khác tại văn phòng’ của những người giao dịch nội bộ, và điều này không có gì bất ngờ cả. Xem Hình 5.18
Chiến dịch đầu tiên là giai đoạn tích lũy. Những người giao dịch nội bộ bắt đầu nhập đầy kho hàng của họ, vốn đang trống sau khi giảm mạnh, với giá bán buôn.
Khi các kho gần đầy, cao trào mua bắt đầu, với một số hành động giá biến động để hút thêm hàng, nhưng khi đã hoàn tất, họ sẽ thoát ra khỏi vùng giá và kiểm tra nguồn cung. Nếu tất cả lượng bán đã được hấp thụ, những người giao dịch nội bộ có thể bắt đầu đẩy thị trường cao hơn từng bước, xây dựng lại niềm tin khi các nhà đầu tư và nhà đầu cơ vẫn còn đang rất sốc.
Khi niềm tin quay trở lại, xu hướng vì thế mà bắt đầu tăng thêm động lực, thu hút những người mua hiện tin rằng thị trường sẽ ‘đi lên đến mặt trăng’. Ngay cả những nhà đầu tư thận trọng cũng không chịu nổi và mua vào khi giá đang chạm đến vùng mục tiêu bán lẻ.
Khi thị trường đang ở vùng giá bán lẻ (vùng phân phối), phe mua bị thu hút ngày càng nhiều vì giai đoạn phân phối bắt đầu trở nên gay cấn hơn với giá tăng cao hơn, sau đó giảm xuống khiến họ bị kẹt lại. Cuối cùng, cao trào bán xuất hiện, với hành động giá biến động, và hàng còn lại được dọn sạch sẽ khỏi kho.
Khi kho đã trống rỗng, thị trường giảm xuống bứt phá ra khỏi vùng phân phối, và kiểm tra lượng cầu còn lại đang trôi nổi. Nếu việc kiểm định xác nhận rằng lượng mua tại khu vực này đã được hấp thụ hết thì chiến dịch xem như hoàn tất và thị trường sẽ giảm giá nhanh chóng.
Chu kỳ đã hoàn tất, phần chiến thắng thuộc về những người giao dịch nội bộ. Và mọi thứ cứ được lặp lại, lặp lại,... tôi nghĩ là bạn đã hiểu ra vấn đề.
Điểm quan trọng cần nhớ ở đây là chu kỳ này có thể diễn ra trong bất kỳ khung thời gian nào và trên bất kỳ thị trường nào. Hình minh họa ở trên có thể là biểu đồ 5 phút của một cặp tiền tệ đang diễn biến trong vài giờ. Cũng có thể là biểu đồ ngày của cổ phiếu đang diễn biến trong vài tuần hoặc vài tháng. Cũng có thể là biểu đồ 1 giờ của thị trường hợp đồng tương lai nào đó, nhà tạo lập trong trường hợp này là các những nhà điều hành lớn (large operator) với chu kỳ kéo dài khoảng vài ngày hoặc một tuần. Khung thời gian thực sự không quá quan trọng, chỉ cần bạn hiểu được quy luật nhân quả của Wyckoff là được.
Hình 5.18 Chu kỳ thị trường - Một ngày làm việc khác tại văn phòng!
Khi bắt đầu nghiên cứu chi tiết các biểu đồ, chúng ta sẽ thấy các chu kỳ này xảy ra lặp đi lặp lại và chỉ cần trang bị đầy kiến thức được trình bày trong các chương đầu là đủ để giúp các nhà giao dịch và nhà đầu tư thực sự hiểu thị trường hoạt động như thế nào cũng như giao dịch một cách tự tin.
Tuy nhiên, đối với một nhà giao dịch VPA thì đó chỉ là điểm khởi đầu.
Trước khi chuyển sang chương tiếp theo, hãy để tôi cố gắng ‘đóng khung’ lại toàn bộ những gì đã trình bày từ đầu quyển sách đến bây giờ, đặc biệt hơn, vì nó là thứ mà tôi đã mất một thời gian dài để hấp thụ từ lần đầu tiên học VPA.
Do đó, tôi sẽ tóm tắt lại, bắt đầu từ khái niệm thao túng thị trường, và cố gắng giải thích quan điểm theo những thuật ngữ này. Có phải những nhà tạo lập thị trường có thể đẩy giá lên, kéo giá xuống một cách tự do và bất cứ khi nào họ cảm thấy thích hơn hay không. Câu trả lời dứt khoát là không. Quan điểm về sự thao túng thị trường của tôi có lẽ khác với quan điểm của những người khác, đơn giản là nhà tạo lập thị trường sử dụng mọi nguồn lực sẵn có, để kích hoạt nỗi sợ hãi hoặc lòng tham của những nhà giao dịch nhỏ lẻ mà thôi. Một trong những nguồn lực tiêu biểu là phương tiện truyền thông, họ sử dụng nó để tác động đến việc mua và bán trên thị trường, và đẩy giá đi theo định hướng đã lên kế hoạch từ trước, tăng cao hơn trong giai đoạn phân phối hoặc giảm thấp hơn trong giai đoạn tích lũy.
Đây là điều mà tôi cho là thao túng thị trường. Nghĩa là việc tạo ra một môi trường, từ đó khơi gợi nỗi sợ hãi hoặc lòng tham trong tâm trí của nhà đầu tư hoặc nhà đầu cơ. Như tôi đã nói trước đó, thao túng thị trường không phải là thao túng giá, mà là thao túng hai cảm xúc sợ hãi và tham lam. Nỗi sợ hãi kích thích hành động bán, sự tham lam kích thích hành động mua, và các phương tiện truyền thông dưới mọi hình thức chính là công cụ hoàn hảo thao túng hai yếu tố cảm xúc trên.
Tiếp theo, tuy tất cả những người giao dịch nội bộ làm việc cùng nhau nhưng không phải kiểu một thỏa thuận giữa các công ty cạnh tranh để kiểm soát giá. Có hàng trăm chuyên gia trên sàn giao dịch (specialist) và nhà tạo lập thị trường, và đơn giản là không khả thi để làm như vậy. Tuy nhiên, tất cả họ đều nhìn ra điểm mạnh và điểm yếu trên thị trường một cách đồng thời. Họ có lợi thế khi nhìn thấy cả hai mạt: tất cả lệnh mua và tất cả lệnh bán, và từ đó nắm được tâm lý thực sự của thị trường.
Nhưng thứ họ không thể che giấu được chính là khối lượng giao dịch, nhờ đó mà khái niệm này trở nên vô cùng mạnh mẽ và hữu ích. Đó cũng là cách duy nhất để chúng ta có thể biết được khi nào những người giao dịch nội bộ tham gia vào hành động giá và nếu tham gia thì họ đang mua hay đang bán. Khi hạ đang mua trong cao trào mua, chúng ta có thể phát hiện ra nhờ khối lượng tại đó rất lớn. Ngược lại, họ đang bán trong cao trào bán, chúng ta có thể phát hiện ra nhờ khối lượng tại đó rất lớn. Bạn cần phải hiểu những khái niệm này.
Khối lượng không phải là yếu tố quan trọng để xác định sự thao túng thị trường trong VPA, mà nó đem đến cho tôi một quan điểm khác.
Tôi thường được hỏi những người giao dịch nội bộ tính toán các mức giá mục tiêu để tích lũy và phân phối như thế nào, và câu hỏi này cũng là điều mà tôi đã tự đấu tranh với bản thân. Liệu có phải họ lựa chọn các mức giá tùy ý trước, hoặc có một logic nào đó giúp chúng ta 'hiểu được’ khía cạnh này không? Cụm tù' ‘hiểu được’ chính là yếu tố xác định được hành vi giá tại các mức giá này.
Trên bất kỳ biểu đồ nào, có những lúc giá tắc nghẽn tạo ra mức tự nhiên mà tại đó thị trường có thể được coi là ‘quá bán’ hoặc ‘quá mua’ - thuật ngữ mà tôi đã giới thiệu trước đó trong chương này. Các mức giá này nền tảng cơ bản đổi với các nguyên tắc của VPA vì hai lý do. Đầu tiên, chúng đại diện cho các khu vực mà thị trường tìm thấy sự hỗ trợ hoặc có khả năng gặp sự kháng cự. Chúng xác định các mức cản, nơi mà thị trường đã tạm dừng trong quá khứ và rời khỏi hoặc đảo ngược khỏi các khu vực này. Tôi sẽ giải thích chi tiết hơn về những điều này ngay sau đây, nhưng tạm thời hãy chấp nhận thực tế là chúng đã tồn tại và được tạo ra trong các giai đoạn tích lũy và phân phối.
Giờ đây, những ‘giai đoạn’ hành động giá này xuất hiện trên khắp các biểu đồ của chúng ta và ở mọi khung thời gian, những người giao dịch nội bộ biết rõ chúng nằm ở đâu và liệu chúng có phải là những khu vực tiềm năng để giá bùng nổ lớn hay chỉ đơn giản là những khu vực tạm dừng nhỏ trong quá khứ trước khi tiếp tục di chuyển. Do đó, khi chuẩn bị bất kỳ chiến dịch nào, những người giao dịch nội bộ đều đã nhắm mục tiêu đến những vùng này, như những mức tự nhiên tiềm năng để tích lũy và phân phối. Điều này cũng giải thích được những hành động giá khi thị trường chạm đến vùng giá này.
Hãy bắt đầu với giai đoạn phân phối và quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thời gian diễn ra cao trào bán?
Thị trường được đẩy lên cao hơn và tăng tốc nhờ tin tức tích cực, cuối cùng cũng đã đến vùng mục tiêu, có khả năng là vùng được xem là ‘quá bán’, nói cách khác, có khả năng giá sẽ bị cạn động lượng tại đây. Chúng ta biết điều này vì đây là những khu vực mà người giao dịch nội bộ nhắm mục tiêu trước khi chiến dịch bắt đầu. Theo xu hướng tăng, được hỗ trợ bởi những tin tức tích cực và số lượng phe mua tham gia thị trường ngày càng tăng, những người giao dịch nội bộ hiện tạm dừng ở mức này và bắt đầu công việc phân phối.
Giai đoạn đầu của đợt phân phối được thực hiện hoàn toàn dựa trên động lượng đã được thúc đẩy vào thị trường bởi những người giao dịch nội bộ, do đó khối lượng ở đây sẽ cao nhưng không quá mức. Trên bất kỳ thanh nến ‘tăng’ nào, khối lượng ở đây sẽ đại diện cho lượng mua ‘tự nhiên’ của các nhà đầu tư và nhà đầu cơ. Nói cách khác, những người giao dịch nội bộ không cần dùng nguồn lực để ‘ép’ thị trường tăng cao hơn trong giai đoạn này. Họ chỉ đơn giản là bán hàng cho phe mua có nhu cầu, qua đó làm cho giá tăng, và phe mua hiện tại đang rất ‘tham lam’. Bất cứ lượng bán nào ở mức giá này, tại thời điểm này cũng đều là lượng bán ‘tự nhiên’ từ những người đã mua ở đầu xu hướng vì họ nhận thấy rằng thị trường có thể vấp phải sự kháng cự tại mức giá này và quyết định chốt lời. Điểm mấu chốt ở đây là khối lượng tương ứng suốt giai đoạn trên cao hơn mức trung bình nhưng không quá mức.
Chắc chắn sẽ có những dấu hiệu suy yếu như chúng ta thấy ngay sau đây, khi bắt đầu nghiên cứu chi tiết các biểu đồ, nhưng giai đoạn đầu tiên của sự phân phối tôi sẽ gọi giai đoạn ‘tự nhiên’. Vào thời gian này, người giao dịch nội bộ chỉ đang đáp ứng nhu cầu từ các nhà đầu tư và đầu cơ tham lam. Bất cứ lượng hàng bán ra nào cũng được hấp thụ vào kho hàng của họ, và được tái bán.
Sau đó, tin tức được sử dụng khiến thị trường tăng lên giảm xuống trong một phạm vi nhất định để lượng hàng tồn kho được bán ra dần.
Để giai đoạn cuối cùng, cao trào bán xuất hiện, và đây là lúc những người giao dịch nội bộ cần phải nỗ lực. Hiện tại ở mức này, thị trường đang rất yếu. Có lẽ tin tức không còn quá lạc quan như trước, và những người giao dịch nội bộ đang phải ‘ép’ giá tăng cao hơn bằng cách sử dụng bất cứ tin tức nào để có thể để kéo thêm phe mua.
Nhưng với một thị trường yếu, phe mua hiện đang trở nên bị áp đảo bởi phe bán, đó là lý do tại sao chúng ta thấy hành động giá được phản ánh tương ứng ở các cây nến trong thời gian diễn ra cao trào bán. Những người giao dịch nội bộ hiện đang phải đối mặt với tình huống khó khăn thực sự vừa cố gắng giữ thị trường đứng vững bằng cách ép nó tăng cao hơn, vừa mạo hiểm bán ra với số lượng lớn cho phe mua. Nhưng khi khối lượng bán tăng lên, điều này lại dẫn đến giá giảm, khiến cho áp lực giảm của thị trường ngày một lớn.
Ở mỗi các chiến dịch, đây là vấn đề cuối cùng phải đối mặt. Rất dễ hiểu. Họ phải bán ra với khối lượng đủ lớn và cuối cùng giá sẽ giảm chống lại họ. Đây là một cuộc chiến cam go, vừa giữ cho giá cao, vừa dọn sạch hàng trong kho vào giai đoạn cuối cùng đầy kịch tính.
Vấn đề ở đây là làm sao để đẩy ra ngoài thị trường một lượng hàng lớn nhưng không được để giá giảm nhanh chóng, nếu không họ sẽ phải xây dựng lại từ đầu. Đó là một sự cân bằng mà họ phải thực hiện, và nó được phản ánh rất rõ qua những cây nến cuối cùng khi kết thúc cao trào bán. Những người giao dịch nội bộ phải ép giá cao hơn, vừa đáp ứng mọi nhu cầu tăng lên mà không để giá sụp đổ, và những cây nến trong cao trào bán đã thể hiện điều đó. Hãy nhìn một ví dụ khác.
Hình 5.19 thể hiện hành động những người giao dịch nội bộ đang cố gắng đáp ứng nhu cầu của phe mua bằng cách bán ra khối lượng lớn hàng trong kho, điều này buộc giá giảm trở lại. Bạn có thể tìm thấy trường hợp này trong thực tế. Hàng được tuôn ra nhiều trên thị trường thì sẽ khiến giá giảm. Ngược lại, sự khan hiếm trong một sản phẩm sẽ làm tăng giá trị của nó. Hãy nghĩ đến hàng hiệu, hàng được thiết kế riêng, hàng xa xỉ. Nếu chúng ta muốn tăng giá trị của một thứ gì đó thì chỉ việc tạo một ‘phiên bản giới hạn’. Điều này cho phép chúng ta bán mặt hàng với giá cao hơn, vì số lượng đang rất ít ỏi và người ta ‘thèm khát’ hơn. Ngược lại, giá của một sản phẩm đại trà sẽ thấp hơn nhiều do số lượng sản xuất lớn, từ đó thị trường khó có thể tăng giá.
Bất cứ khi nào các tổ chức lớn phải bán các khối cổ phiếu lớn trên đỉnh xu hướng, họ không thể chỉ đặt một lệnh cho toàn bộ khối cổ phiếu đó. Điều này sẽ khiến giá giảm mạnh và giảm luôn lợi nhuận khi bán cổ phiếu. Do đó, để khắc phục vấn đề này, nhiều công ty lớn sử dụng một phương tiện gọi là ‘bể tối’ (dark pool15).
Tôi đã nói ở phần đầu của quyển sách này: khối lượng là hoạt động duy nhất trên thị trường không thể che giấu được. Vâng, điều này không hoàn toàn đúng đâu. Vì các tổ chức lớn sử dụng bể tối (dark pool) để che giấu các giao dịch lớn và các chi tiết giao dịch sẽ không được công khai cho đến khi giao dịch hoàn tất.
Không có sự minh bạch, một lần nữa, là điều mà ít nhà giao dịch hoặc nhà đầu tư nhỏ lẻ biết đến. Đó không phải là một vấn đề lớn đối với chúng ta, và dù sao đi nữa, chúng ta cũng chẳng thể làm được gì nhiều.
Tuy nhiên, điều này củng cố một quan điểm. Khi một khối cổ phiếu lớn phải được bán, nếu được thực hiện trong một lệnh thì sẽ đẩy giá xuống rất sâu, vì vậy, giải pháp thay thế của họ là chia một lệnh giao dịch thành các khối nhỏ hơn và bán với khối lượng nhỏ hơn hoặc sử dụng bể tối để che giấu nó hoàn toàn.
Vấn đề tương tự cũng xảy ra trong giai đoạn cao trào mua, khi những người giao dịch nội bộ mua với khối lượng lớn, kết quả là thị trường bắt đầu tăng lên. Nick Leeson, nhà giao dịch lừa đảo đã làm phá sản Ngân hàng Barings cũng gặp phải vấn đề tương tự. Anh ta mở vị thế quá lớn, nên không thể đóng hết một lượt mà không khiến thị trường chuyển dịch ngược với hướng mua/bán của bản thân.
Cuối cùng, một ví dụ khác là khi giao dịch một cổ phiếu hoặc tiền tệ kém thanh khoản. Mua với số lượng lớn sẽ nhanh chóng đẩy giá lên. Bán với khối lượng lớn sẽ làm giá giảm. Đây là vấn đề mà những người giao dịch nội bộ phải đối mặt khi bán hoặc mua với khối lượng lớn. Do đó, giá sẽ luôn đi ngược lại với họ, đó là lý do tại sao họ không thể hoàn thành tất cả việc bán hoặc mua trong một phiên.
Nó phải được thực hiện trong hai, ba hoặc bốn phiên, và là một lý do khác khiến quá trình phân phối, cao trào bán và cao trào mua phải diễn ra trong một giai đoạn nhất định. Tôi đã phải vật lộn với vấn đề này một khoảng thời gian dài, nhưng tôi sớm biết rằng chúng ta chỉ đơn giản là kiên nhẫn và đợi cho đến khi giai đoạn cao trào kết thúc. Hãy nhớ rằng cần có thời gian để bán hết số lượng lớn một cách nhanh chóng.
CAO TRÀO MUA
Vấn đề tương tự cũng xảy ra trong giai đoạn cao trào mua. Chính vị thế lớn của họ cùng với việc những phe bán khống đóng vị thế của họ, đã khiến giá tăng lên. Tuy nhiên, những người giao dịch nội bộ tham gia vào thị trường là tác động chủ yếu. Nếu chúng ta quay lại ví dụ về cao trào mua một lần nữa:
Hình 5.20 Cao trào mua
Thị trường vẫn đang giảm, những người giao dịch nội bộ đang ép thị trường giảm giá bằng những tin tức tiêu cực, và sau đó mua với số lượng lớn để nhập đầy các kho hàng, những điều này lại khiến thị trường tăng cao. Hành động được dừng lại và thị trường tạm thời đi ngang.
Sau đó, nhiều tin xấu hơn được sử dụng để đẩy thị trường xuống thấp hơn, họ tiếp tục lợi dụng tình thế này để mua vào với khối lượng lớn, với thị trường tăng lên lần nữa. Điều này được lặp đi lặp lại cho đến khi kho được nhập đẩy hàng.
Việc chúng ta có tin vào việc thị trường bị thao túng phản ánh trong hành vi giá như thế này hay không cũng không quan trọng lắm. Quan trọng là bạn tin vào mối quan hệ giữa giá và khối lượng trong các giai đoạn này của hành vi thị trường là được.
Khối lượng giao dịch cực cao đang cho chúng ta thấy: rõ ràng, hơn lúc nào hết, thị trường đang chuẩn bị cho sự đảo chiều xu hướng. Khi thấy hành động giá và khối lượng cao tương ứng với giai đoạn cao trào bán, chúng ta biết rằng có một sự đảo chiều xu hướng giảm giá tiềm năng. Khi thấy hành động giá và khối lượng cao tại giai đoan cao trào mua, thì sắp sửa có một xu hướng tăng tiềm năng diễn ra. Đảm bảo là như vậy.
Khối lượng lớn và hành động giá liên quan đã thể hiện tất cả. Không thể rõ ràng hơn.