“Không có gì à?” Mẹ nhìn bố với sự van nài khẩn thiết trong ánh mắt, như thể bà mong ông sẽ lao ngay vào hành động để sửa chữa sự bất công. “Ý anh là gì, chúng không làm gì hết?”
Kit và tôi đã sẵn sàng. Chúng tôi biết phản ứng mình sẽ phải nhận được. Chúng tôi đã thấy trước hơi thở dồn dập hoảng hốt, sự run rẩy của cơn cuồng loạn trong giọng nói. Chúng tôi cũng dự đoán trước phản ứng của bố, thứ mà bây giờ chúng tôi chưa phải chịu, nhưng chúng tôi đã hoàn toàn sẵn sàng trên mặt trận đó, bởi chúng tôi cũng tiên đoán được sự chậm trễ. Mẹ là người phản ứng ngay tức thì trong hai người, nôn ra cơn hoảng loạn trong quyết tâm đưa ra những cáo buộc mà bà tự cho là đúng đắn. Sẽ mất mười phút – mười lăm phút nhìn từ bên ngoài – trước khi bố đóng góp bất cứ lời nào cho cuộc thảo luận. Cho tới lúc đó, ông sẽ ngồi với đầu gục về phía trước và bàn tay đan vào nhau, cố gắng làm quen với bằng chứng thật khó chịu rằng cuộc đời không phải luôn luôn diễn ra theo cái cách mà Val và Geoff Monk tin là nó nên diễn ra.
Anton sẽ tiếp tục nằm ngang qua tấm thảm phòng khách của tôi, tựa mình lên cánh tay, chủ yếu nói chuyện với Benji về chủ đề ưa thích gần đây của họ: một bộ sưu tập những người ngoài hành tinh giả tưởng có mấy cái tên kiểu như Humungosaur và Echo-Echo. Fran thì làm nhiều việc một lúc, trong khi đảm bảo rằng Benji không phá hoại Melrose Cottage, em sẽ nhắm những lời chỉ trích nửa cáu kỉnh nửa đùa giỡn vào bố mẹ như một cách để che chở họ khỏi lời chỉ trích lớn hơn, có sức công phá mạnh hơn mà họ đáng phải nhận.
Ở cạnh gia đình mình, Kit và tôi trở thành những nhà ngoại cảm đoán đâu trúng đó. Sự dễ đoán của gia đình Monk nên là một sự nhẹ nhõm dễ chịu sau tất cả những gì chúng tôi đã trải qua. Dễ dự đoán được là không phải thế.
“Từ những gì chúng con có thể thu thập được, có một sự xung đột từ bên trong,” Kit nói với mẹ. Lắng nghe anh nói, không ai đoán được anh cảm thấy khốn khổ và lạc lõng đến thế nào. Mỗi khi bố mẹ tôi xuất hiện, anh lại đóng vai chàng rể thông thái, mạnh mẽ, giỏi giang, anh từng nói với tôi rằng mình thích thế – anh muốn trở thành người như vậy. “Ian Grint không muốn từ bỏ, nhưng anh ta đang chịu áp lực. Rất nặng nề, hay cũng có thể đó là ấn tượng chúng ta có từ Sam Kombothekra.”
“Nhưng Connie đã thấy… cái thứ kinh khủng đó! Một người khác cũng nhìn thấy nó. Làm sao mà cảnh sát có thể tiếp tục như không có chuyện gì xảy ra? Hẳn phải có gì đó họ có thể làm chứ.” Bất kỳ ai đang nghe mà không phải là chuyên gia thấu hiểu suy nghĩ trong đầu mẹ hẳn sẽ nghĩ rằng bà đã quên mất là lúc đầu bà không hề tin tôi. Đó là điều hầu hết mọi người sẽ làm: nói một đằng, rồi, khi nó được chứng minh là sai, nói một nẻo khác và chọn cách quên đi rằng lần nào đó họ từng chọn sai. Không phải với Val Monk, bà không thể nào có cái kiểu bảo-toàn-cái-tôi tự-lừa-dối-mình thường thấy. Bà giải thích cho tôi và Kit vào tối thứ Ba, khi chúng tôi đã quá kiệt sức sau một ngày với Grint để tranh cãi nổi với bà, rằng bà chẳng có gì để tự quở trách mình cả: bà đã đúng khi không tin tôi ngay từ đầu vì chẳng ai biết về Jackie Napier ở thời điểm đó, và, nếu không có cô ta chứng thực, điều tôi nói không thể nào là thật được. Sau đó, ngay khi chỉ còn hai đứa, Kit bảo tôi, “Vậy là, tóm lại tình hình của mẹ em: bà đã đúng khi không tin em lúc đó cũng như đã đúng khi tin em bây giờ. Dù cho chuyện gì là thật bây giờ, nó chắc chắn cũng là thật lúc đó.” Chúng tôi cười với nhau về điều ấy – thực sự bật cười – và tôi nghĩ thật lạ lùng làm sao khi ngay giữa tất cả những sự khổ sở, không rõ ràng và sợ hãi, sau một ngày bị hỏi cung bởi những tay thám tử vốn không thích cũng không tin bất kỳ ai trong chúng tôi, Kit và tôi vẫn có thể thu nhặt được một chút niềm an ủi từ sở thích xưa cũ là xé toạc mẹ tôi thành từng mảnh.
“Vấn đề nằm ở việc thiếu hụt chứng cứ có tính pháp lý,” Kit đang giải thích cho bà. “Họ đã lục soát từng inch một của số 11 Bentley Grove, lấy tấm thảm, nạy gỗ trải sàn – cơ bản là họ đã tháo rời ngôi nhà ra và gửi rất nhiều phần nhỏ đi phân tích, nhưng họ không tìm được gì cả. Chà, không hẳn, họ tìm ra còn hơn cả không gì cả,” Kit tự sửa lời mình. “Họ tìm ra không một điều gì hết theo cái cách mà rất có ý nghĩa.”
“Hai mươi tỉ nhiều hơn không gì cả, phải không, bố?” Benji hỏi Anton, đập đập lên chân cậu ta bằng một món đồ chơi người ngoài hành tinh bằng nhựa màu xám.
“Cái gì cũng nhiều hơn không gì cả, anh bạn ạ.” Nếu tôi và Kit vẫn bình thường với nhau, thì giờ tôi đã nhìn anh và gửi đi một thông điệp im lặng: Có thể nào đây là điều sâu sắc nhất Anton từng nói không?
“Sam nói với chúng con có hai kiểu không có kết quả, theo các định nghĩa pháp lý,” Kit tiếp tục. “Kiểu có thể đưa ra kết luận và kiểu không cho kết luận.”
Vẫn bắt kịp tụi này chứ, Anton?
“Như thế tức là sao?” Mẹ nói một cách sốt ruột.
“Mẹ có thể không tìm thấy gì ở nơi có thể là hiện trường của một vụ án mạng và vẫn không biết được liệu có tội ác nào đã xảy ra hay không. Hoặc là, như trong trường hợp này, mẹ không thể tìm thấy bằng chứng pháp lý nào và có thể nói mà không nghi ngờ gì rằng một tội ác cụ thể đã không xảy ra ở đây. Sam nói không có cách nào mà trong ngôi nhà đó từng tồn tại một lượng máu lớn như cả Connie và Jackie Napier đã mô tả mà lại không để lại… tàn dư có giá trị pháp lý nào. Bởi vì nó không…” Kit nhún vai. “Cảnh sát chẳng có gì để điều tra. Về mặt pháp lý, họ phải kết luận rằng không ai bị giết ở đó cả. Họ đã có một người môi giới bất động sản và hai người chủ cũ thề độc rằng tấm thảm hiện tại trong phòng khách đúng là tấm đã ở đó nhiều năm rồi, kể từ trước khi người chủ hiện tại chuyển vào. Họ đã hỏi chuyện với hàng xóm xung quanh, những người không nói được gì nhiều, ngoại trừ việc Bentley Grove là một con phố yên tĩnh đáng yêu. Không có người bị mất tích nào trùng với mô tả mà Connie và Jackie Napier trình bày với họ, và chẳng có cái xác nào. Họ có thể làm gì được?”
“Họ là cảnh sát,” mẹ nói, mím môi lại. “Phải có điều gì đấy – một góc độ mà họ chưa nghĩ tới, một điều gì khác họ có thể theo đuổi.”
“Kit đang cố giải thích với mẹ là không có đâu,” Fran bảo bà. Tôi tự hỏi liệu em ấy có cảm thấy phiền muộn khi nói đỡ cho người đàn ông mà em tin là một kẻ dối trá với một cuộc đời bí mật. Em ấy chưa hề kể gì về cuộc nói chuyện của chúng tôi hôm thứ Hai – chưa kể với bố mẹ, chưa kể với Anton. Họ không biết gì về địa chỉ trong định vị của Kit, hay chiếc xe của anh trên mục Cảnh Đường Phố. Tôi không yêu cầu em ấy không được kể với ai, em ấy tự quyết định rằng tất cả chúng tôi nên tiếp tục chơi trò “Gia đình Gắt gỏng Hạnh phúc.” Em đang đóng vai của mình hoàn toàn tự nguyện giống như Kit đóng vai của anh.
Và mày thì sao, Connie? Tại sao mày lại không nói gì? Tại sao mày không bảo với mọi người chồng mình có thể là kẻ sát nhân?
“Ian Grint không phải là đồ ngốc, mẹ Val à,” Kit cố xoa dịu mẹ. “Anh ta biết Connie và cái cô Jackie này đang nói sự thật. Sam nghĩ sếp của anh ta cũng biết điều đó, nhưng hãy nhìn từ quan điểm của họ. Nếu một vụ giết người đã diễn ra, họ chẳng có cái xác, chẳng có nghi phạm, chẳng có bằng chứng nào ngoại trừ lời khai của hai nhân chứng và không có cách nào để tiến hành cả. Hoàn toàn bị chặt đứt vây cánh, phải không? Không quá tệ với Grint – anh ta chỉ là cảnh sát điều tra, không phải đứng mũi chịu sào. Thanh tra cấp trên của anh ta mới là người chịu mọi rủi ro khi thông báo ‘Đây không phải một vụ phạm tội, nó có thể chỉ là một trò chơi khăm – hãy cứ cho là như thế và quên chuyện này đi.’”
“Một trò chơi khăm?” Mẹ lại lôi kéo sự chú ý của bố một lần nữa. “Anh có nghe thấy không, Geoff? Giết chết ai đó, giờ đây, là một trò chơi, phải không? Để mặc họ chảy máu trên tấm thảm…”
“Mẹ à, vì Chúa.” Fran làm vẻ mặt ám chỉ sự suy sụp tinh thần. “Kit đang muốn nói rằng cảnh sát nghĩ là không có vụ sát hại nào hết – trò chơi khăm ở đây là kiếm ai đó nằm trên một vũng sơn đỏ, hay sốt cà chua…”
“Chị biết sự khác biệt giữa máu và sơn,” tôi nói.
“Thể loại chơi khăm gì mà lại thế?” Mẹ thắc mắc. “Không vui vẻ gì lắm, đúng không? Người phụ nữ đầu óc bình thường nào lại làm hỏng một cái váy đẹp bằng cách nằm lên sơn?”
“Sam và Grint đều cho rằng giả thuyết trò chơi khăm thật ngu ngốc, cũng y như mọi người ở đây nghĩ vậy,” Kit nói. “Ai đó cấp cao hơn trong sở cảnh sát Cambridge đã gợi ý như vậy khi họ tìm ra rằng người nào xâm nhập vào trang web và thay đổi tour ảo cũng đổi nó lại như cũ vào nửa tiếng sau. Con không hiểu tại sao chuyện đó lại đáng quan tâm, và con không chắc là Sam và Ian Grint hiểu, nhưng không có nhiều thứ chúng con có thể làm. Quyết định đã được đưa ra rồi.”
“Và con sẽ chỉ ngồi đó và chẳng làm gì hết?” Mẹ nhìn tôi trong nỗi bàng hoàng. “Vờ như nó chưa bao giờ xảy ra? Thế còn trách nhiệm của con với người phụ nữ tội nghiệp đó, dù cô ta có là ai đi nữa?”
“Connie có thể làm gì được?” Kit hỏi.
“Con có thể xin vào làm cảnh sát trưởng vùng Cambridge,” tôi gợi ý.
“Bánh đâu rồi, bố ơi?” Benji hỏi Anton. “Khi nào thì chúng ta sẽ tặng quà cho bác Connie?”
Tôi không biết thằng bé đang nói về cái gì. Rồi tôi nhớ ra đây đáng lẽ phải là tiệc sinh nhật của tôi. Hôm nay là sinh nhật tôi. Giống như tất cả những buổi lễ kỷ niệm của nhà Monk, nó bắt đầu lúc 5 giờ 45 phút chiều và sẽ kết thúc lúc 7 giờ 15 phút, để Benji có thể ở trên giường lúc 8 giờ.
“Việc đầu tiên phải làm sáng thứ Hai, Kit, con gọi cho cảnh sát,” bố nói. Chào mừng bố đến với cuộc hội thoại. “Con nói với họ rằng con nghĩ đây là một chuyện đáng hổ thẹn – con muốn câu trả lời và con muốn phải có ngay. Con muốn biết họ có kế hoạch hành động gì, và tốt hơn là họ nên có kế hoạch hành động gì đó đi.”
“Đúng rồi.” Mẹ gật gù hưởng ứng.
“Nếu họ gây rối với con, con đe dọa sẽ tìm tới báo chí. Nếu họ vẫn không chịu động tay, con cứ thế mà làm. Ngay giây phút chuyện được lên báo địa phương, ngay giây phút người dân Cambridge biết về chuyện này và bắt đầu hoảng hốt, sẽ chẳng có lỗ nẻ nào cho Ian Grint và bầy của anh ta chui xuống nữa.”
“Bố, bố đang nói cái gì vậy?” Fran bật cười. “Người dân địa phương sẽ không hoảng loạn đâu. Bố làm cho chuyện nghe như kiểu có một tên cuồng loạn đang miệt mài giết chóc, đi lang thang khắp các con phố Cambridge. Liệu bố có hoảng không, nếu bố nghe rằng ai đó đã bị giết ở Little Holling, nếu bố chẳng có lý do gì để nghĩ rằng mình đang gặp nguy hiểm?”
“Chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra,” mẹ nói. “Đó là lý do chúng ta sống ở Little Holling – bởi vì nó an toàn và không kẻ nào có thể sát hại chúng ta trong nhà mình.”
“Cambridge không hoàn toàn là Rwanda, phải không, và có vẻ như có ai đó đã bị giết ở đó,” Fran vặc lại bà.
“Cambridge là một thành phố, với… nhiều người từ khắp mọi nơi đến sống ở đó. Không ai biết ai trong thành phố, không có không khí cộng đồng. Không có điều gì giống thứ Connie đã thấy lại xảy ra ở đây cả, và nếu như có, cảnh sát sẽ điều tra cẩn thận.”
“Mẹ định nghĩa ‘ở đây’ xem nào.” Fran nhìn về phía tôi tìm sự ủng hộ. Tôi nhìn đi chỗ khác. Tôi không thể mạo hiểm dính líu vào bất kỳ hình thức tranh luận nào với mẹ, phòng khi tôi bị cuốn theo và vô tình nhắc rằng giả như có một vụ án mạng xảy ra ở Little Holling thật, có khả năng cao sẽ là vụ mà nạn nhân là bà, do tôi sát hại. “Cambridge không xa đến thế. Con chắc chắn nó có tỉ lệ án mạng tương đối thấp, bởi người dân sống ở đó về cơ bản là khá thông minh và có nhiều việc hay ho để làm hơn là giết chóc lẫn nhau. Trong khi ở Culver Valley…”
“Culver Valley là một trong những nơi an toàn nhất nước Anh,” bố nói.
“Bố đùa con à? Anton, nói cho bố đi! Bố không đọc hai tờ báo địa phương à? Ở Spilling và Silsford trong vài năm gần đây, đã có…” Fran ngừng lại. Benji đang níu tay em. “Ừ, con yêu? Sao thế?”
“Án mạng là gì vậy? Có phải là một người chết khi người ta được một trăm tuổi không?”
“Giờ thì nhìn xem con vừa làm gì!” Mẹ hét vào mặt Fran. “Benji bé nhỏ tội nghiệp. Cháu không có gì phải lo lắng đâu, thiên thần nhỏ ạ. Tất cả chúng ta đều sẽ tới thiên đường khi chúng ta chết và ở trên thiên đường thì rất tuyệt – phải không nào, ông ngoại?”
“Thiên thần?” Fran trông có vẻ sẵn sàng nhảy bổ vào. Tôi không nghĩ là mình từng trông thấy em ấy giận dữ đến mức này trước đây. “Ngay bây giờ, chúng ta đang ở trên Trái đất, mẹ ạ, không phải thiên đường, và tên thằng bé là Benji.”
“Làm ngay sáng thứ Hai đi, Kit.” Bố ra hiệu bằng ngón tay. “Con phải khiến cho anh chàng cảnh sát Ian Grint đấy không thể nào không để ý đến được.”
Tôi phải trốn khỏi tất cả bọn họ. Tôi lầm bầm điều gì đó về trà và bánh ngọt, và ép bản thân rời khỏi phòng với một tốc độ bình thường, thay vì bỏ chạy, điều mà tôi muốn làm. Vào trong bếp, tôi đóng cửa lại và tựa vào cửa. Bao lâu nữa tôi mới có thể trốn thoát khỏi việc phải sống ở đây? Mãi mãi ư?
Tiếng gõ cửa chen ngang vào những mơ tưởng của tôi. Kit. Hẳn là anh – tôi vẫn nghe được mẹ, bố và Fran đang tranh luận trong phòng khách. Tôi không muốn cho anh vào, nhưng vì tôi là người đồng chủ mưu với anh nên chẳng có sự lựa chọn nào khác. Có thể anh có chuyện quan trọng muốn nói về việc giữ vững sự dối trá mà chúng tôi đang trưng ra với gia đình tôi chiều nay: cuộc hôn nhân hạnh phúc giả tạo của chúng tôi.
“Em ổn không?” anh hỏi tôi.
“Không. Anh thì sao?”
“Chỉ đang cố cảm thấy thoải mái. Hãy cùng pha trà và lấy bánh, rồi có thể chúng ta sẽ loại bỏ được họ sớm thôi.”
“Họ sẽ về đúng lúc bảy giờ mười lăm, dù mình có làm hay không làm gì,” tôi nói. Đáng ra Kit phải biết rằng không nên hy vọng chuyện gì khác có thể xảy ra. “Bố và Anton sẽ đi thẳng đến quán rượu cho đêm thứ Sáu bia bọt của họ, và mẹ sẽ bận rộn trong suốt ít nhất nửa tiếng để giúp Fran cho Benji đi ngủ. Em sẽ chở anh tới ga lúc bảy giờ hai mươi lăm – bằng cách đó em có thể về kịp trước khi tất cả mọi người đều trở về. Nếu bất kỳ ai trong số họ buồn nhìn ngó, họ sẽ thấy cả hai chiếc xe của chúng ta và cho rằng chúng ta đều đang ở đây.”
Kit gật đầu. Tôi rót đầy ấm và bật nó lên, lấy chiếc bánh sinh nhật mua từ cửa hàng ra khỏi giỏ bánh mì. Tôi chọn loại đắt tiền nhất trong siêu thị, như thể việc đó có thể bù đắp cho bất kỳ điều gì. Tôi xếp những chiếc tách, đĩa đựng chén và thìa uống trà vào một chiếc khay, rót đầy sữa vào bình, cạo lớp đường bị đổi màu ở trên bề mặt để mẹ không phải bật như lò xo khi bà nhìn vào trong bát. Cuối cùng, không kém phần quan trọng, một cốc đong có nắp đầy nước táo cho Benji, đứa bé năm tuổi duy nhất trên thế giới này vẫn còn uống nước từ cốc cho bé sơ sinh.
Kit lấy những chiếc đĩa sạch ra khỏi máy rửa bát. “Ngày mai, em sẽ dành cả ngày ở chỗ bố và mẹ,” tôi bảo. Anh chìa ra một con dao có răng cưa lớn cho tôi cầm. “Nếu em ở đó, sẽ không ai trong số họ tới đây. Em sẽ bảo họ là anh ở nhà làm việc.”
“Chuyện này thật điên khùng, Con. Sao chúng ta không thể nói cho họ sự thật? Dự án hiện tại của chúng ta đang đến giai đoạn cực kỳ quan trọng ở London, người ta cần anh làm việc ở đó toàn thời gian, vậy nên anh đã quyết định ở lại căn hộ trong tương lai gần.”
Tôi lấy con dao từ tay anh. “Đó không phải sự thật, Kit.”
“Em biết ý anh là gì mà,” anh nói một cách mất kiên nhẫn, như thể tôi đang vạch lá tìm sâu. “Không phải sự thật hoàn toàn, nhưng… chẳng lẽ chúng ta không thể nói với họ điều gì đó gần với sự thật, để mình không phải giả vờ là anh đang sống ở đây trong khi thật ra là không phải?” Tôi quan sát lúc anh quyết định nói thêm, và biết được anh sẽ nói gì. “Hoặc mình có thể biến lời nói dối của chúng ta thành sự thật: em có thể để anh chuyển về lại.”
“Đừng.” Tôi đẩy anh ra, không dám nhìn thẳng vào mắt anh, phòng khi ánh mắt tôi thể hiện quá rõ ràng rằng tôi nhớ anh nhiều đến chừng nào. Anh chuyển ra ngoài từ thứ Tư. Hai đêm gần đây, tôi đã nằm khóc, không tài nào ngủ được, dùng hết ý chí quyết tâm để ngăn mình không gọi cho anh và cầu xin anh quay về. Tôi cứ tự cho mình là người tốt cho tới khi tất cả chuyện này xảy ra, nhưng giờ tôi hiểu rằng mình không như vậy. Tôi đã có thể dễ dàng bỏ qua những gì đúng đắn, quay về phía Kit và nói, “Anh biết sao không? Em không quan tâm nếu anh gặp gỡ ai đó sau lưng em. Em không quan tâm nếu anh là một kẻ dối trá hay thậm chí là tên sát nhân – em sẽ yêu anh và ở bên cạnh anh dù gì đi nữa, bởi vì lựa chọn làm gì khác là quá khủng khiếp và mất quá nhiều công sức.”
“Chúng ta sẽ phải làm việc đó, phải không?” Kit nhắm mắt lại. “Toàn bộ màn trình diễn: hát chúc mừng sinh nhật, mở quà, thổi nến, những nụ hôn, cái ôm chúc mừng…” Tôi thấy cơn rùng mình chạy dọc cơ thể anh.
“Tất nhiên sẽ phải thế. Chẳng phải đó là chuyện xảy ra hàng năm kể từ khi anh biết em? Gia đình em không biết rằng năm nay có gì khác biệt.”
“Connie, chúng ta có một sự lựa chọn.” Anh tiến về phía tôi. Tôi nên ngăn lại. “Chúng ta có thể để lại tất cả những chuyện này phía sau lưng, quay lại như xưa. Hãy tưởng tượng không ai trong chúng ta từng có quá khứ, tưởng tượng rằng hôm nay là ngày đầu tiên trong cuộc đời chúng ta.”
“Chúng ta sẽ không kết hôn. Chúng ta sẽ là những người xa lạ.” Nếu tôi không nhanh chóng quay đi khỏi anh, có thể tôi sẽ không bao giờ còn làm vậy được nữa. “Em đồng ý, như thế có vẻ dễ chịu hơn,” tôi nói. “Ngay bây giờ, chúng ta là những người lạ đã kết hôn.”
“Hai đứa đang làm gì thế?” Mẹ mở tung cửa mà chẳng buồn gõ. “Hai đứa đang nói chuyện gì vậy? Hy vọng không phải vẫn là về chuyện cảnh sát. Hôm nay phải là một dịp ăn mừng. Geoff nói đúng, Kit – con sẽ gọi cho cái cậu Ian Grint này vào thứ Hai, và chuyện sẽ được giải quyết cách này hay cách khác.
“Con chắc chắn là như vậy,” Kit nói không cảm xúc.
Bằng cách này hay cách khác. Hai cách trong đầu bà là cách nào vậy? Tôi tự hỏi. Các nhà khoa học có thể bắt cóc mẹ tôi và thay thế bà bằng một người máy trông giống hệt bà, thế là sẽ không ai nhận ra miễn là người ta đã lập trình đủ những câu nói rập khuôn vào trong bộ từ vựng của cỗ máy: cách này hay cách khác, giờ thì nhìn xem con đã làm gì, như thế nghĩa là sao?
Tôi làm việc duy nhất có thể khiến cho phần còn lại của cái gọi là bữa tiệc này dễ chịu hơn: tôi quay lại phòng khách và bắt đầu một cuộc nói chuyện với Anton về thể hình. Tôi bảo với cậu ta là mình đã chán việc gầy nhẳng rồi, hỏi xem tôi có thể làm gì để có cơ bắp mà vẫn trông không giống như một người phụ nữ lực điền với hai cánh tay đô vật. Tôi không nghe câu trả lời của cậu ta, nhưng ơn trời, nó rất dài và chi tiết, và cứu tôi khỏi phải nói chuyện với bất kỳ ai khác. Bố và Fran tranh luận ở phía bên kia căn phòng về việc liệu có ai chuyển tới một thành phố lại tỏ vẻ mong muốn bị tấn công một cách dữ dội, thường xuyên hay không, còn Benji thì ném những mô hình người ngoài hành tinh đồ chơi bằng nhựa lên không, cố gắng đụng trần và thường thì thành công.
Giữa họ, mẹ và Kit sắp xếp những món quà của tôi thành một đống trên tấm thảm – một nghi lễ của gia đình Monk được thực hiện vào mỗi dịp có quà cáp. Mọi người theo lượt của mình nhặt một món quà khỏi đống đó và đưa nó cho người nhận. Việc lấy quà phải theo thứ tự tuổi tác: Benji, Fran, tôi, Anton, Kit, mẹ và bố, và rồi lại quay lại Benji nếu vẫn còn thêm gói quà để phân phát. Hệ thống này không phải là không có khiếm khuyết: khi đây là sinh nhật tôi và tới lượt mình chọn, rõ ràng tôi biết là cuối cùng thì mình sẽ phải đưa bất kỳ món quà gì tôi đã chọn cho chính mình. Nhiều năm rồi, bố vẫn cố gắng vận động hành lang cho một sự thay đổi: nếu dịp đó là sinh nhật thay vì Giáng sinh, người có sinh nhật nên được loại khỏi vòng chọn. Mẹ phản đối dữ dội một sự cải tổ, và cho đến nay bà vẫn thành công trong việc chặn đứng nó.
Toàn bộ màn kịch không lời này làm tôi muốn bắn một phát vào đầu mình.
Năm nay, Benji đã mua cho tôi một chiếc túi màu oải hương hình trái tim. Tôi dành cho thằng bé cái ôm âu yếm thay lời cảm ơn và thằng bé cố gắng uốn éo để thoát ra. “Khi người ta chết, lúc được một trăm tuổi, trái tim họ ngừng đập,” nó nói. “Phải không, bố ơi?”
Bố mẹ tặng tôi thứ họ đã luôn tặng tôi – và tặng Fran, Kit cùng Anton nữa – vẫn là món quà của họ kể từ khi chúng tôi có nhà riêng, cho ngày sinh nhật của chúng tôi, lễ Giáng sinh và lễ Phục sinh: một phiếu giảm giá của Monk & Sons trị giá một trăm bảng. Tôi trét một nụ cười lên mặt, hôn cả hai người, giả vờ biết ơn.
Bố mẹ của Kit trước đây rất giỏi chọn quà. Tôi đoán là họ vẫn vậy, dù cho họ không còn tặng quà chúng tôi nữa. Tôi luôn thích mê những món họ tặng tôi: phiếu spa, vé xem opera, thẻ thành viên của câu lạc bộ sô-cô-la và câu lạc bộ rượu vang. Kit chẳng bao giờ bị ấn tượng. “Ai cũng có thể mua những món như thế,” anh nói. “Những món quà của khách hàng từ công ty, từ những người lắm tiền chẳng thèm quan tâm.” Kể cả trước khi anh cắt đứt quan hệ với bố mẹ mình, anh cũng không có vẻ yêu quý họ lắm. Tôi không thể hiểu được. “Em sẵn sàng cho đi bất cứ thứ gì để có được phụ huynh là những con người bình thường, thú vị,” tôi từng nói với anh, rất ấn tượng bởi việc Nigel và Barbara Bowskill, những người sống ở Bracknell, thường lái xe tới London để đến nhà hát hoặc xem triển lãm nghệ thuật.
Khi Simon Waterhouse hỏi tôi tại sao Kit lại chối bỏ bố mẹ mình, tôi kể cho anh ta những gì Kit nói với tôi: rằng vào năm 2003, khi tôi đang trải qua cơn khủng hoảng tinh thần nho nhỏ vì viễn cảnh rời khỏi Little Holling, khi tóc tôi đang rụng và cơ mặt tôi bị liệt và tôi nôn mửa liên tục, bố mẹ Kit nói với anh rằng anh phải tự lo liệu những vấn đề của mình, không thể trông chờ bất kỳ sự giúp đỡ hay hỗ trợ nào từ họ – họ quá bận rộn xây dựng công việc kinh doanh mới của mình.
Tôi không thể tưởng tượng được bác Nigel hay Barbara lại vô tâm như thế, nhưng khi tôi nói vậy với Kit, anh quát tháo với tôi rằng tôi không ở đó còn anh thì có, và tôi phải tin lời anh: bố mẹ anh không quan tâm quái gì đến tôi, hay anh, vậy thì sao phải nhọc công liên hệ gì thêm đến họ?
Tôi nghĩ mình đã trả lời cho câu hỏi của Simon, nhưng trông anh ta có vẻ không vừa lòng. Anh ta hỏi tôi liệu có bất kỳ điều gì khác tôi có thể kể ra, điều gì cũng được, về chủ đề quan hệ giữa Kit và bố mẹ anh ấy. Tôi nói không còn. Quả đúng là như vậy, thẳng thắn mà nói. Có ích gì không khi thú nhận chính tôi cũng luôn tự hỏi liệu Kit có cố ý dịch sai hay phóng đại điều gì đó vô thưởng vô phạt mà bác Nigel và Barbara đã nói, hòng có được nguyên cớ để cắt đứt liên hệ với họ? Tôi quyết định rằng có lẽ mình đã không công bằng khi nghi ngờ anh dựng chuyện về họ như vậy, nên tôi không nói gì về điều đó với Simon.
“Nào, Connie – mọi người đang đợi đấy,” tiếng của mẹ kéo tôi trở về với bữa tiệc tôi chẳng muốn tham gia. Có một gói quà trong lòng tôi, được gói trong giấy gói ‘Chúc Mừng Sinh Nhật’: món quà từ Kit. Chỉ có anh, Fran và tôi biết rằng tôi đã nhìn thấy nó từ trước, rằng bên trong nó là một chiếc túi xách Chongololo. Cả ba người chúng tôi đều đang nghĩ về việc tôi gần như phá hỏng điều bất ngờ trong ngày sinh nhật vô cùng chu đáo của Kit – hay ít nhất là tôi nghĩ thế. Tôi đứng ở ngưỡng cửa, Kit quanh quẩn với chiếc kéo và băng dính Sellotape, cố gắng tỏ ra như thể anh không bị tổn thương bởi sự thiếu tin tưởng của tôi. Tôi nhìn nó như một cảnh tĩnh trong cuốn phim chẳng có ý nghĩa gì với mình; tôi chẳng cảm thấy ăn năn, không hối lỗi. Cảm giác tội lỗi sau một thời gian trở nên nhàm chán, bạn cuối cùng quyết định rằng đó hẳn phải là lỗi của người khác, không phải bạn.
Tôi không muốn món quà này, dù nó có là gì đi nữa, nhưng phải giả vờ rằng mình thích. Mẹ vỗ tay và nói, “Ồ, mẹ rất nóng lòng được xem nó! Kit có gu rất tuyệt!” Tôi tạo ra những âm thanh hào hứng giả tạo khi xé giấy bọc, nghĩ rằng đến một lúc nào đấy tôi sẽ phải nói cho bố mẹ biết rằng Kit đã chuyển ra ngoài, rằng tôi có thể đỡ cho mình nhiều tuần hay nhiều tháng sống trong dối trá bằng cách nói cho họ ngay bây giờ. Tại sao tôi lại không làm? Có phải tôi đủ ngây thơ để hy vọng rằng, bất kể mọi chuyện đã xảy ra, rắc rối giữa chúng tôi sẽ hết?
Kit đã nói gì? Chúng ta có thể biến lời nói dối thành sự thật.
Tôi thả giấy gói trên sàn, mở chiếc túi Chongololo và lấy ra một chiếc váy xanh dương.
“Chờ đã,” mẹ nói. “Tất cả chúng ta đều muốn xem nó, phải không, Geoff?”
“Bố sẽ không phân biệt được một cái váy Chongololo với một cái bình tưới nước đâu, mẹ,” Fran nói.
Và bố chẳng bao giờ trả lời khi mẹ hỏi trực tiếp ông. Mẹ chưa từng để ý ư, trong suốt bao nhiêu năm kết hôn với ông? Ông chỉ nói chuyện với mẹ khi nào ông thấy cần, không phải để đáp ứng bất kỳ nhu cầu nào của mẹ.
Tôi đứng dậy, rũ cái váy để mẹ có thể thấy nó. Nó không chỉ xanh dương, còn có màu hồng nữa. Một loại họa tiết. Những đường uốn cong.
Những đường uốn lượn, tay ngắn…
Không. Không, không, không.
Bóng tối trườn vào từ ngoài rìa tầm nhìn của tôi, hướng về trung tâm. “Chị ổn chứ, Con?” Tôi nghe Fran nói.
“Sao thế, Connie?” Giọng của mẹ bị bóp méo trên đường vọng đến tôi. Khi chúng tới được tai tôi, những từ ngữ đã bị kéo dãn và vặn xoắn, như những đường trên chiếc váy.
Tôi phải làm một điều gì đấy để đẩy lùi cơn choáng váng. Cho tới lúc này, tôi chưa từng trải qua một cơn choáng váng nào trước mặt mẹ, và tôi không cho phép chuyện đó diễn ra bây giờ. Năm 2003, trong một khoảnh khắc yếu đuối, tôi thú nhận với bà về việc rụng tóc, nôn mửa và liệt cơ mặt. Tôi chưa từng nói với ai, kể cả Kit, nhưng tôi cảm thấy sợ cái cách bà giải nghĩa tình trạng khó khăn mới của tôi. Nó đem lại cho bà một câu chuyện để bà tự kể cho chính mình, câu chuyện mà bà thích: tôi tự làm mình phát bệnh vì cứ cố giả vờ như bản thân muốn chuyển tới Cambridge, trong khi, thẳm sâu trong lòng, tôi không muốn – tôi chỉ nói mình muốn để làm vừa lòng Kit. Giờ đây, tôi đang phải trả giá vì sự ngu ngốc của mình, và bà sẽ săn sóc cho tôi khỏe lại. Bài học đạo đức từ câu chuyện? Không có thành viên nào của gia đình nhà Monk được phép nghĩ đến chuyện rời khỏi Little Holling.
“Connie?” Qua sự lờ mờ, tôi nghe Kit gọi tên mình, nhưng chẳng có mối liên hệ nào giữa não bộ và giọng nói của tôi, nên tôi không thể trả lời.
Đừng đầu hàng cơn váng vất. Cố gắng suy nghĩ đi. Tóm lấy một ý nghĩ và tập trung cả năng lượng của mày vào nó, trước khi nó tan biến và để lại mày trôi nổi trong bóng tối.
Mày không muốn nói với Kit bởi vì mày không muốn tự thừa nhận điều đó, đúng không? Lảm nhảm về việc mẹ mình là đồ quái dị hoang tưởng thích kiểm soát là một chuyện, còn chuyện khác phải nói… Nào, thú nhận đi. Đó là sự thật, phải không? Mày biết là thế mà. Bà vui mừng vì mày bệnh tật, bà nghĩ mày đáng phải chịu thế. Bà thà rằng mày bệnh hoạn còn hơn được tự do.
Đám mây mù trong đầu tôi bắt đầu tan. Khi tầm nhìn của tôi trở lại bình thường, tôi thấy Fran và Kit đều sẵn sàng nhảy khỏi ghế để giữ lấy tôi, nhưng họ chẳng cần phải lo. Cơn choáng váng đã qua, và nó sẽ không quay lại nữa. Cả những lời nói dối của tôi nữa, không phải những lời tôi nói với người khác. Tôi đã phát bệnh với việc đầu độc bản thân mình bằng sự không trung thực.
Tôi ném chiếc váy vào Kit. “Đây là chiếc váy người phụ nữ đã chết đó mặc,” tôi nói.
Mẹ, bố và Fran đều bắt đầu phản đối ầm ĩ. Tôi nghe thấy “… xanh dương và hồng… lố bịch… áp lực của tất cả những chuyện cảnh sát này… không thể nào…”
“Đó là chiếc váy cô ta đã mặc,” tôi nhắc lại, vẫn nhìn vào Kit. “Anh biết là nó. Đó là lý do vì sao anh mua nó cho em – một phần trong kế hoạch hủy hoại em của anh.” Mẹ kêu lên một tiếng kiểu như một con ngựa bị tấn công có thể sẽ kêu. Tôi lờ bà đi. “Đúng ra đến giờ phút này em phải hóa điên hoàn toàn rồi, đúng không?” Tôi nhổ từng từ vào mặt Kit. “Sụp đổ? Bởi vì anh không thể nào lại đi mua cho em chiếc váy sinh nhật tương tự với cái mà người phụ nữ bị sát hại đã mặc trong bức hình em thấy trên Roundthehouses, vậy hẳn là em bị điên, em hẳn là mất trí rồi – có đúng thế không?”
“Sao bác Connie lại giận vậy, bố ơi?” Benji hỏi.
“Connie, nghĩ về những điều em đang nói đi.” Mặt Kit trắng bệch. Dùng mắt mình, anh làm dấu về phía mẹ như muốn nói, Em có thực sự muốn làm thế này trước mặt mẹ không?
Tôi không thèm để tâm. Tôi sẽ nói những gì mình phải nói, dù có là ai vô tình đang nghe đi nữa, dù đó có là mẹ, bố, Giáo hoàng hay Nữ hoàng Anh.
“Em nói cái váy em nhìn thấy có màu xanh lá và tím hoa cà.” Kit đang nhìn vào tôi, nhưng lời nói của anh không vì lợi ích của tôi, anh muốn khán giả của chúng tôi nghe được rằng anh có chứng cứ cho sự không nhất quán của tôi, và thêm đó, cho sự điên rồ của tôi. “Cái vày này màu xanh dương và hồng.”
“Đúng là chị đã nói là xanh lá và tím nhạt, Con.” Fran vào hùa với anh.
Tôi nhặt lấy túi của mình. Khi tôi rời khỏi căn phòng, mẹ gọi với theo tôi. “Mẹ không biết con nghĩ con sẽ đạt được gì với việc bỏ chạy!”
Tôi đã đạt được rồi. Tôi đã đi.
“Thiết kế giống y hệt,” tôi bảo Alice. “Hẳn là có một phiên bản xanh lá và tím cùng một phiên bản xanh dương và hồng.” Đây là cuộc hẹn gặp khẩn cấp thứ hai trong vòng chưa đầy một tuần. Lần trước, tôi lo lắng rằng cô ấy sẽ khó chịu vì tôi lợi dụng cô ấy. Hôm nay, khi tôi xuất hiện trong lúc cô ấy chuẩn bị rời chỗ làm, tôi không hề xin lỗi hay cho cô ấy một lựa chọn nào. Tôi bảo rằng cô ấy phải gặp tôi.
“Người phụ nữ bị giết ở số 11 Bentley Grove mặc một chiếc váy từ một cửa hàng quần áo độc lập nhỏ, vốn tự sản xuất phục trang của riêng nó và chỉ có một chi nhánh – ở Silsford.” Tôi ngừng lại để cho sự quan trọng của thông tin này tự gây ấn tượng với Alice.
“Hãy nhìn từ góc rộng hơn một chút.” Cô ấy làm điệu bộ máy ảnh bằng tay, kéo nó về phía cơ thể mình. “Đặt chuyện chiếc váy sang bên một lúc đã…”
“Kể cả Fran cũng tin Kit, và em ấy nghĩ anh là một kẻ dối trá,” tôi hấp tấp. “Hôm trước em ấy nói với tôi rằng bất kỳ bác sĩ nào kết luận rằng tôi không có vấn đề gì chắc chắn là chưa xem xét kỹ lắm.”
“Quên Fran đi,” Alice nói. “Tôi muốn chị nói về mình và Kit. Không có ai khác là quan trọng cả. Chị nói Kit đang cố làm chị nghi ngờ sự minh mẫn của chính mình. Tại sao anh ấy lại làm thế?”
Tôi mở miệng, rồi nhận ra mình chẳng có gì để nói, không có câu trả lời. Tôi lật lại mọi thứ trong đầu: tìm thấy địa chỉ trong định vị, Kit phủ nhận mọi hiểu biết về nó, chuyến tour ảo của số 11 Bentley Grove, cái xác người phụ nữ, cảnh sát, Jackie Napier cũng nhìn thấy cái xác, Fran quan sát trên mục Cảnh Đường Phố và phát hiện ra xe của Kit, tôi mở món quà sinh nhật từ Kit và thấy chiếc váy đó.
Tôi nhận ra gần như tất cả các nhân vật trong câu chuyện: Simon Waterhouse thông minh và cẩn trọng, Sam Kombothekra tốt bụng và khiêm tốn, Fran thực tế và vô tâm, Selina Gane tức giận và sợ hãi. Tôi thậm chí có thể tìm ra được những tính từ cho Jackie Napier, người tôi chỉ được gặp trong năm phút: tỏ vẻ cao đạo, ngạo mạn, thiếu sức hút. Và người phụ nữ đã chết trên tấm thảm: cô ta đã chết, bị rút sạch máu, bất động. Đó là những đặc điểm định nghĩa cô ta. Chỉ có duy nhất một người tôi không thể tập trung vào được, dù có cố đến đâu.
“Connie?” Alice thúc giục tôi.
“Tôi không biết Kit là ai hay cái gì nữa,” tôi cuối cùng cũng nói. “Như thể anh ấy hoàn toàn không còn là một con người nữa, chỉ là… một hình ảnh, một hình ảnh không gian ba chiều. Một tập hợp của những hành động.”
“Ý chị là chị không tin anh ấy.”
“Không.” Thật khó để miêu tả một thứ đã thất lạc. Một sự vắng mặt chỉ có hình dạng rõ ràng khi nó từng xuất hiện, khi bạn biết thứ gì đã biến mất rồi. “Tôi không tin anh, nhưng đó không phải điều tôi đang nói. Khi tôi ở bên cạnh anh, tôi không cảm nhận được… một con người ở đây, dưới lớp da ấy,” tôi nhún vai. “Tôi không thể giải thích được gì hơn, nhưng… chuyện này không mới. Nó không bắt đầu xảy ra khi tôi phát hiện ra số 11 Bentley Grove trong định vị của anh. Tôi biết đến nó nhiều năm rồi. Tôi chỉ chưa cho phép bản thân mình thừa nhận nó.”
Alice đang chờ đợi tôi thổ lộ nhiều hơn.
“Khi Kit còn là sinh viên ở Cambridge, anh đã yêu một người nào đó. Có vẻ như anh đã để vuột mất cô ấy, nhưng khi tôi hỏi anh về chuyện đó thì anh ngậm chặt miệng và phủ nhận. Anh luôn giận dữ với bố mẹ mình, nhưng chẳng bao giờ chịu nói cho tôi vì sao. Anh giả vờ là không phải thế, nhưng tôi có thể thấy rõ – tôi nghe thấy sự giận dữ ấy trong giọng nói của anh bất cứ khi nào anh nói chuyện với họ. Rồi anh cắt đứt quan hệ với cả hai người họ, và tôi khá chắc anh đã nói dối về lý do thực sự.”
“Và rồi xảy ra chuyện định vị vệ tinh, xe của anh ấy ở phần Cảnh Đường Phố, xác người phụ nữ, chiếc váy,” Alice nói. Cô ấy xoay chiếc ghế lại đối diện với cửa sổ. “Connie, tôi thường không nói những điều như thế này với một bệnh nhân, nhưng tôi sẽ nói với chị: tôi nghĩ chị đã đúng khi không tin Kit. Tôi không biết anh ấy đã làm gì, nhưng tôi nghĩ chị cần tránh xa anh ấy ra.”
“Tôi không thể. Selina Gane không chịu nói chuyện với tôi, và cảnh sát đã nói họ sẽ không điều tra kỹ hơn nữa. Cách duy nhất để tôi tìm hiểu được chuyện gì đang diễn ra là thuyết phục Kit nói sự thật. Sao?”
Có phải đấy là sự thương hại hiện lên trong mắt cô ấy không?
“Cô không nghĩ là tôi sẽ tìm ra được, đúng không? Cô nghĩ tôi nên bỏ cuộc.”
“Tôi biết chị sẽ không làm thế.” Cô ấy mỉm cười với tôi. “Tôi cũng sẽ không bỏ cuộc, nếu tôi là chị.”
“Trước khi tất cả những chuyện này xảy ra, tôi cũng như Kit,” tôi bảo cô ấy. “Tôi cũng không thực. Giờ thì tôi đã có một nét tính cách rồi: tôi là người phụ nữ sẽ không từ bỏ.”
“Chị không thực?”
Tôi không chắc đó là điều tôi có thể giải thích, nhưng tôi phải cố, dù nghe có điên rồ đến đâu đi nữa. “Năm 2003, khi Kit và tôi đang tìm nhà ở Cambridge, tôi cảm thấy… mình không tồn tại.”
Alice chờ đợi tôi nói chi tiết hơn.
“Hầu hết mọi người đều có một kiểu nhà mà họ thích: nhà ống ở trung tâm thành phố, nhà nhỏ bằng đá ở một nơi biệt lập. Vài người luôn mua nhà mới xây, vài người khác chỉ xem xét một ngôi nhà trên trăm tuổi. Ngôi nhà bạn chọn nói lên một điều gì đó về kiểu người của bạn. Khi Kit đưa tôi đi xem một ngôi nhà nhỏ trong một ngôi làng tên là Lode, ngay ngoại thành Cambridge, tôi nghĩ, ‘Phải, mình có thể là kiểu người nông thôn.’ Rồi anh đưa tôi tới một căn hộ áp mái trên một trục đường chính ở trung tâm thành phố, và tôi nghĩ, ‘Đây có thể là mình – có thể bản chất của mình thuộc về thành phố.’ Tôi hoàn toàn không hiểu bản thân mình, hay điều mình muốn. Sau ba hay bốn lần xem nhà, tôi bắt đầu hoảng sợ rằng bản thân chẳng có định dạng. Tôi trong suốt – tôi nhìn xuyên thấu bản thân và chẳng thấy gì ở đó. Tôi nghĩ mình có thể sống ở bất kỳ nơi nào trong những chỗ này. Tôi không thể nói xem cái nào trong chúng ‘đúng là mình’ hay ‘không giống mình’. Có lẽ tôi không có cá tính.”
Alice ngả mình vào lưng ghế. Nó kêu cọt kẹt. “Chị là người phóng khoáng. Kit cho chị xem rất nhiều ngôi nhà đẹp, và chị thích tất cả theo những cách khác nhau. Hoàn toàn có thể hiểu được, và không có gì phải lo lắng. Có lẽ mỗi ngôi nhà nói lên một nét tính cách khác nhau của chị.”
“Không.” Tôi xua đi những lời làm yên lòng tôi của cô ấy. “Đúng, tôi thật là ngốc nghếch khi lo sợ về việc không biết mình thích kiểu nhà nào, tất nhiên là thế, nhưng tôi lại hoảng sợ – đó mới là điều đáng ngại. Mỗi lần tôi xem một ngôi nhà và không thể chắc chắn ngay rằng nó có ‘đúng là mình’ hay không, tôi có cảm giác càng lúc càng không thực. Như thể từng cái tôi mà tôi có thể đã từng có đang rơi rụng dần, từng chút một.” Tôi cắn móng tay, sợ rằng mình đang thừa nhận quá nhiều và sẽ phải trả giá vì điều đó. “Và rồi chúng tôi tìm ra ngôi nhà tuyệt vời này, số 17 Pardoner Lane – ngôi nhà tuyệt nhất cho đến lúc đó, giờ đây tôi có thể nhận ra – và tôi đã trong một thứ tình trạng mà, tôi không biết rằng mình thích nó hay ghét nó. Kit mê mẩn nó. Tôi cũng vờ như vậy – tôi không biết mình tỏ ra có thuyết phục không. Tôi cảm thấy như mình đang sụp đổ. Tất cả những gì tôi muốn là có thể nói rằng, ‘Đúng, ngôi nhà này hoàn toàn chính là tôi’ và… hiểu được như vậy có ý nghĩa gì.”
Alice cúi xuống, với tay vào chiếc va li màu nâu đang để mở dưới bàn. Đó là nơi cô ấy cất các loại thuốc; bên trong chiếc va li được chia ra thành nhiều ô nhỏ, mỗi ô chứa một lọ thủy tinh nhỏ màu nâu. “Chị đã lo lắng và trầm cảm, bị ngợp bởi những kỳ vọng vô lý của gia đình,” cô ấy nói, lấy một chiếc lọ, rồi một cái nữa, đọc nhãn. “Cảm giác co hẹp cái tôi của chị là hậu quả của việc cố gắng dập tắt những nhu cầu bản thân vì bố mẹ, bởi họ cảm thấy không thoải mái với chúng. Nó chẳng liên quan gì đến việc dễ dàng thay đổi kiểu cách nhà chị muốn mua, tôi hứa đấy.” Cô ấy đã tìm ra thứ thuốc mình cần. Dành cho người cực kỳ, cực kỳ điên khùng.
Tôi muốn nói thêm về ngôi nhà tôi đáng lẽ đã phải lòng, nhưng tôi đã quá kích động để có thể nhìn ra. Tôi cần phải thú nhận tất cả: cách tôi bắt đầu phá hỏng mọi thứ, tan nát bởi lời kết án của Kit về chứng hoang tưởng của mình. “Số 17 Pardoner Lane ở cạnh một trường học – Trung tâm Beth Dutton,” tôi kể với Alice. “Tôi mất ngủ – suốt đêm – vì cái chuông. Nực cười đến mức nào chứ?”
“Cái chuông?”
“Chuông của trường. Sẽ ra sao nếu nó kêu giữa các tiết học và quá ồn ào? Tiếng ồn có thể làm chúng tôi phát điên, chúng tôi sẽ không thể nào bán nhà và chuyển đi bởi chúng tôi phải trung thực với những người mua sau này – chúng tôi không thể nói dối về một thứ như vậy được. Kit nói, ‘Nếu chuông quá ồn, chúng ta sẽ yêu cầu họ nhỏ tiếng xuống.’ Anh cười tôi vì lo lắng một thứ quá ngốc nghếch như vậy. Anh lại cười nữa vì vài ngày sau tôi lại hoảng lên vì một lý do lố bịch tương đương: ngôi nhà không có tên.”
“Lần này tôi sẽ cho chị một loại thuốc khác,” Alice nói. “Anhalonium. Vì chị đã nói về việc cảm thấy như thể mình trong suốt và không có cá tính.”
“Tôi chưa từng sống ở nơi nào lại không có tên,” tôi nói, không lắng nghe cô ấy. “Vẫn chưa. Đầu tiên tôi sống ở Thorrold House cùng với bố mẹ, rồi tôi chuyển đến ở với Kit. Căn hộ của anh ấy ở Rawndesley là số 10, nhưng tòa nhà có một cái tên: Tháp Martland. Dù sao thì, đấy là chuyện khác. Không ai trong chúng tôi nghĩ căn hộ đó là nhà – nó chỉ là chỗ tạm thời, một khoảng dừng. Giờ tôi sống ở Melrose Cottage, nhà Fran và Anton là Thatchers… ở Little Holling, tất cả các ngôi nhà đều có tên. Đó là điều tôi đã quen. Trong khi Kit đang mê mẩn số 17 Pardoner Lane, tôi cố tưởng tượng bản thân mình sống trong một ngôi nhà mà chỉ là một con số, nó dường như… không đúng, theo một cách nào đó. Quá thiếu cá tính. Điều đó làm tôi sợ.”
Alice gật đầu. “Sự thay đổi là vô cùng đáng sợ,” cô ấy nói. Alice luôn ủng hộ tôi. Tôi không chắc mình cần gì, không còn chắc nữa. Có lẽ sẽ tốt hơn cho tôi khi nghe cô ấy nói, “Đúng, Connie. Thật quá điên rồ. Chị cần phải ngừng suy nghĩ một cách điên khùng như vậy.”
“Một đêm, tôi đánh thức Kit dậy lúc bốn giờ sáng,” tôi kể với cô ấy. “Anh đang ngủ, và tôi cứ lay anh dậy. Tôi nghĩ hẳn là mình bị cuồng loạn rồi. Tôi mất ngủ suốt đêm, tôi tự đẩy mình vào tình trạng đó. Kit nhìn chằm chằm vào tôi như một kẻ thần kinh – tôi vẫn nhớ được trông anh sốc đến mức nào. Tôi bảo với anh là chúng ta không thể mua số 17 Pardoner Lane trừ phi ta đặt tên cho nó – tôi không thể sống trong một ngôi nhà không tên. Tôi muốn chúng tôi tìm trên mạng, xem liệu có thể đặt cho ngôi nhà một cái tên nếu nó chưa có. Cô biết đấy, một cách chính thức.”
Alice mỉm cười, như thể có điều gì đó có thể hiểu được hay dễ mến trong sự điên khùng của tôi.
“Kit thấy tôi sẽ không bình tĩnh lại hay cho anh ngủ thêm được tí nào cho tới khi anh tìm được giải pháp cho vấn đề tôi tự tạo ra, nên anh nói, ‘Thôi nào, được rồi – hãy đi tìm hiểu xem.’ Anh nhanh chóng tìm được đủ thông tin trên mạng để thuyết phục tôi không cần lo: chúng tôi có thể đặt số 17 một cái tên nếu chúng tôi muốn. Rất dễ – tất cả những gì bạn phải làm là viết thư cho Bưu điện. Anh nói, ‘Cái tên Nhà thương điên thì sao nhỉ?’”
“Chị chắc phải cảm thấy tổn thương lắm,” Alice nói.
“Không hề. Tôi bắt đầu cười – tôi nghĩ đó là câu đùa hay nhất tôi từng được nghe. Tôi thấy thật nhẹ nhõm là mọi thứ sẽ ổn – Kit sẽ có được ngôi nhà anh yêu, và tôi sẽ có thể biến nó thành tổ ấm bằng cách đặt tên cho nó. Tất nhiên, ở một mức độ nào đó, tôi hẳn đã biết mình sẽ phải nghĩ ra một chướng ngại mới…” Tôi lắc đầu mình trong cảm giác kinh tởm. “Tôi tự hỏi nó sẽ là gì: tôi không thích tay nắm cửa, hay thùng thư. Sự điên loạn của tôi có thể gắn vào một thứ ngẫu nhiên nào đó, dù chỉ có một chút xíu cơ hội, nhưng lúc đó tôi không nhận ra. Kit cũng nhẹ nhõm. Chúng tôi đã gần như… tôi không biết nữa, như thể chúng tôi đang ăn mừng. Chúng tôi không đi ngủ ngay lập tức – chúng tôi thức để tìm xem các trang web về tên nhà trên mạng, bật cười vì những gợi ý kỳ cục: Costa Fortuna, Wits End. Có vẻ như những cái tên như vậy rất phổ biến – trang web nói thế. Tôi thấy thật khó tin, nhưng Kit nói anh có thể tưởng tượng một vài người đồng nghiệp gọi tên ngôi nhà của mình kiểu như thế. ‘Đó là một thứ tai họa phổ biến, nghĩ rằng mình hài hước lắm trong khi chẳng phải,’ anh nói. ‘Wits End. Cũng có thể gọi nhà của bạn là Tôi là đồ ngẫn.’ Tôi hỏi anh ấy muốn gọi tên nhà mình là gì.”
“Anh ấy nói gì?”
“Ồ, một đống những thứ ngu ngốc – những thứ anh biết là ngu ngốc, để làm tôi vui lên. Tôi không nghĩ anh đã cố quá đâu – anh biết nó không phụ thuộc vào mình. Cái tên cần phải hoàn hảo, và nó phải đến từ tôi – một điều gì đó nói lên rằng ‘đây là nhà’ và khiến mọi nỗi lo lắng của tôi biến mất. Kit bắt đầu nói nhảm. ‘Anh có ý này,’ anh nói. ‘Hãy gọi nó là Trung tâm Death Button. Em có nghĩ những người ở Trung tâm Beth Dutton sẽ tức giận không? Hay người đưa thư?’ Tôi bảo anh đừng có ngớ ngẩn thế. Đáng ra phải biết rằng làm vậy chỉ khiến anh càng quậy hơn.” Ký ức, đã biến mất khỏi tâm trí tôi biết bao năm, đột nhiên giờ còn sống động hơn thực tế. Tôi có thể thấy mình rất rõ, ngồi bên bàn trong căn hộ Tháp Martland, Kit quỳ cạnh tôi, cả hai đều đang mặc đồ ngủ. Chúng tôi chỉ có một ghế ngồi máy tính hồi ấy. Tôi cười rú lên, to đến mức gần như không nghe được giọng Kit nữa, nước mắt chảy xuống. “Anh vờ như vô cùng nghiêm túc, nói, ‘Càng nghĩ về nó anh càng thấy thích nó: Trung tâm Death Button. Chúng ta có thể đặt làm một tấm biển ở cửa trước. Không, anh biết rồi, còn hay hơn thế – hãy đặt tên nó là 17 Pardoner Lane…’” Những từ ngữ thoát ra khỏi miệng tôi khi nỗi sợ hãi mới trào lên khắp cơ thể. Gì vậy? Đó là gì vậy?
Trung tâm Death Button. Trung tâm Nút Tử thần…
Tôi đứng dậy, suýt ngã, dựa người vào tường.
“Connie? Có chuyện gì vậy?”
Tôi biết mình đã thấy gì – chi tiết còn thiếu mà tôi đã không thể nghĩ ra cho tới tận bây giờ. Đúng, nó đã ở đó. Nó chắc chắn đã ở đó, trong bức hình có người phụ nữ và vũng máu. Nhưng không phải trong tấm ảnh phòng khách, tấm không có người phụ nữ đó, tấm ảnh tôi sẽ thấy nếu tôi xem tour của số 11 Bentley Grove bây giờ. Trong bức hình đó, nó đã biến mất. “Tôi phải đi,” tôi nói với Alice. Tôi túm lấy túi của mình và chạy, mặc kệ cô ấy van nài ở lại, bỏ lại đằng sau lọ thuốc cô ấy đã chuẩn bị cho tôi đang đặt ở góc bàn của cô ấy.