SỨC MẠNH CỦA NHỮNG BỘ ÓC KÌ CỰU
Não bộ của ta không bao giờ ngừng phát triển và thay đổi.
Nó đã như vậy từ lúc ta còn là bào thai, và sẽ tiếp tục như vậy cả đời.
Và khả năng này có lẽ chính là ưu thế lớn nhất của nó.
• James Trefil, nhà vật lý học kiêm tác gia
Bố mẹ vợ tôi, Howard và Gisele Miller, đều ở tuổi bảy mươi, và đang bị mắc kẹt. Họ vừa ra khỏi tàu điện ngầm ở Washington, D.C., thì sa vào một cơn bão tuyết dữ dội. Cả hai đang trên đường đến nhà vợ chồng tôi để ăn tối và cần vẫy taxi vì quãng đường quá xa để đi bộ – nhưng lúc ấy là giờ cao điểm, và không một chiếc taxi nào dừng lại. Howard đã cố gọi vợ chồng tôi đến đón, nhưng vợ tôi và tôi đều kẹt xe trên đường và chưa về đến nhà.
Khi các ngón tay bắt đầu tê cóng vì lạnh, Howard chợt nhận ra khung cửa sổ mờ hơi nước của một tiệm pizza bên kia đường. Ông và Gisele dắt nhau lội bùn đi sang, bước vào trong cửa hiệu, đến quầy và đặt một bánh pizza lớn để họ giao đi. Khi nhân viên thu ngân hỏi địa chỉ để giao bánh, Howard đã cho địa chỉ nhà vợ chồng tôi, và nói thêm, “Ồ, còn một việc nữa”.
“Gì ạ?”, anh chàng thu ngân hỏi.
“Chúng tôi muốn nhờ anh bạn giao luôn chúng tôi cùng với cái bánh”, Howard đáp.
Và hai ông bà đã đến nơi để ăn tối bằng cách đó – với bánh pizza trên tay.
Mẩu chuyện này, ưa được nhắc đến trong gia đình tôi, đã minh họa mỹ mãn cho đầu óc sáng tạo nhạy bén của người lớn tuổi. Liệu một người trẻ tuổi có nghĩ ra giải pháp này không? Có thể. Sự sáng tạo không có giới hạn tuổi tác. Nhưng theo kinh nghiệm của tôi, loại tư duy đột phá này là một đặc tính do rèn luyện và được hoàn thiện theo tuổi tác. Sherry Willis, thuộc chương trình Phát triển Con người và Nghiên cứu Gia đình tại Đại học Tiểu bang Pennsylvania, gọi đó là sáng tạo thực tiễn để giải quyết các vấn đề hằng ngày, một năng lực mà nghiên cứu của bà cho thấy rất mạnh mẽ ở người lớn tuổi. Tuổi tác cho phép não bộ của ta tích lũy đa dạng chiến lược từ kinh nghiệm cả đời – một phần của cái mà các nhà nghiên cứu gọi là trí thông minh kết tinh. Howard không thường lui tới các tiệm pizza, nhưng kinh nghiệm tích lũy từ các giải pháp thành công khác đã giúp ông kích hoạt tư duy để đưa ra một giải pháp sáng tạo.
Giải pháp của Howard phản ánh không chỉ nhiều năm kinh nghiệm và tư duy nhanh nhạy mà cả một sự phát triển tâm lý thành thục, phổ biến ở những người trong độ tuổi 60 và 70. Cùng với tuổi tác, họ có thể có cảm giác mới về tự do nội tâm, sự tự tin và sự giải thoát khỏi các ràng buộc xã hội để tự cho phép bản thân hành xử theo cách mới mẻ và táo bạo. Howard đã không ngại đưa ra một yêu cầu bất thường với người hoàn toàn xa lạ, và đó là yếu tố quan trọng trong sự thành công tối hôm đó.
Trong câu chuyện của Howard, chúng ta thấy một trí óc cao niên lành mạnh đang phát huy vai trò: rạch ròi, sáng tạo, tháo vát và quyết liệt. Nhưng làm thế nào luyện được một trí tuệ như vậy? Nó dựa vào đâu để tồn tại? Câu trả lời ngắn gọn là não bộ.
Người ta vẫn nói rằng trí tuệ là hành vi của não bộ. Trí tuệ thường được mô tả như “phần mềm” chạy trên “phần cứng” não bộ. Nhưng cách ví này quá đơn giản. Não bộ dễ uốn nắn và linh hoạt hơn nhiều so với bất kỳ vi mạch máy tính nào. Và trí tuệ, mặc dù có vẻ ẩn hiện đầy hư ảo, lại có thể tác động mạnh đến não và thậm chí cả cơ thể. Trí và não thực sự là hai mặt của một đồng xu duy nhất trí/não. Chương này tìm hiểu phần não của sự cân bằng này và xem xét những khám phá gần đây trong khoa học về não bộ để làm sáng tỏ tiềm năng tích cực của trí tuệ cao niên.
Bạn có thể đã biết những “kiến thức” sau đây về não bộ:
• Não bộ không thể phát triển các tế bào não mới.
• Người lớn tuổi không thể học tốt như người trẻ tuổi.
• Các liên kết giữa các nơron là tương đối cố định suốt đời.
• Trí thông minh hơn nhau ở chỗ ta có bao nhiêu tế bào thần kinh và những tế bào này hoạt động nhanh cỡ nào.
Tất cả những “kiến thức” này đều sai, như ta sẽ thấy. Và đó là tin mừng cho tất cả chúng ta. Não bền bỉ hơn, thích ứng hơn và đắc lực hơn những gì ta vẫn nghĩ lâu nay. Quá trình nghiên cứu trong hai thập kỷ qua đã cho thấy bốn thuộc tính quan trọng của não bộ mà từ đó ta có thể lạc quan về tiềm năng con người trong nửa đời về sau:
• Não bộ liên tục tự tái định hình để đáp lại trải nghiệm và sự học hỏi.
• Các tế bào não mới vẫn sinh sôi trong suốt cuộc đời.
• Mạch cảm xúc của não trưởng thành hơn và cân bằng hơn theo tuổi tác.
• Hai bán cầu não được sử dụng cân bằng hơn ở người lớn tuổi.
Bây giờ, chúng ta hãy hiểu cho rõ. Tôi không ngụ ý rằng não bộ miễn nhiễm với những thay đổi do tuổi tác. Não bộ được hợp thành từ các tế bào, giống như mọi bộ phận của cơ thể, và các tế bào sẽ và vẫn “hao mòn” theo tuổi tác. Một số chức năng não vẫn suy thoái theo tuổi tác, chẳng hạn như tốc độ giải các bài toán phức tạp, thời gian phản ứng và hiệu quả của trí nhớ ngắn hạn. Nhưng những mặt “tiêu cực” này không phải là câu chuyện duy nhất – hoặc thậm chí quan trọng nhất – ở não người cao niên. Thật không may, nhiều nghiên cứu về não bộ cứ tập trung vào các vấn đề liên quan đến tuổi tác; nhấn mạnh các khía cạnh tiêu cực của lão hóa và bỏ qua các tác động tích cực. Thật vậy, một trong những phát hiện quan trọng hơn cả vẫn chưa được nhiều người biết; cụ thể, phần nhiều sự suy thoái năng lực trí não trước đây bị quy cho sự lão hóa đều không do lão hóa gây ra, mà do những căn bệnh cụ thể như “thiếu máu não cục bộ nhất thời”, bệnh Alzheimer[2] và các bệnh tâm thần như trầm cảm. Não bộ lớn tuổi lành lặn thường không thua kém, hoặc thậm chí hữu hiệu hơn cả não bộ trẻ tuổi, trong rất nhiều việc.
Hiểu thấu đáo về cơ chế của não bộ là điều quan trọng vì sự hiểu biết có thể khơi dậy động lực. Nếu biết được cách hoạt động của trí nhớ và thấy được sự liên quan giữa sức khỏe của tế bào thần kinh với chế độ ăn uống, thể dục, giấc ngủ, hoạt động xã hội, và hoạt động thử thách trí não, ta sẽ dễ dàng khai thác tốt hơn khả năng tiềm ẩn của não bộ.
Tiềm năng của những bộ não kì cựu
Sự khác biệt quan trọng nhất giữa não bộ lớn tuổi và não bộ trẻ tuổi cũng là điểm ít được chú ý nhất: Não bộ lớn tuổi đã học nhiều hơn não bộ trẻ tuổi. Nhiều khía cạnh cuộc sống thật quá phức tạp và tinh tế để nắm bắt nhanh, cho nên kinh nghiệm đóng vai trò quan trọng trong rất nhiều lĩnh vực đời sống. Mối quan hệ của con người, chẳng hạn, vốn dĩ là phức tạp, và có thể phải mất hàng thập kỷ để hiểu biết một cách đủ sâu sắc, hầu trở thành một nhà trị liệu, mục sư, nhà quản lý hoặc chính trị gia đắc dụng. Không gì thay thế được quá trình học hỏi dần dà trong các lĩnh vực như biên tập, pháp luật, y khoa, huấn luyện và nhiều lĩnh vực khoa học. Trong các lĩnh vực này và nhiều lĩnh vực khác, tuổi tác thường đánh bại sức trẻ. Tất nhiên, chỉ riêng tuổi tác thì không đảm bảo được ưu thế, nhưng ưu thế trong nhiều lĩnh vực chỉ có thể đạt được bằng nhiều năm nỗ lực và kinh nghiệm.
Giờ đây ta biết rằng việc học thực sự tạo ra những biến đổi thực thể trong não. Não một người cao niên, khi phóng đại thật nhiều lần, nhìn khác hẳn não của một người trẻ tuổi. Các tế bào não (tức nơron) trong các vùng não của người lớn tuổi, vốn được sử dụng liên tục, trông như một khu rừng dày đặc cây cối rậm nhánh, so với khu rừng thưa thớt và ít rậm rạp của não bộ người trẻ tuổi. Mật độ tế bào thần kinh này là nền tảng thực thể để chứa đựng các kỹ năng mà người cao tuổi có được.
Chúng ta hãy xem xét tường tận hơn quá trình học tập để biết nó định hình não ra sao.
Để học, ta phải nhớ. Và trí nhớ được tạo ra khi các cụm hàng trăm đến hàng ngàn tế bào thần kinh được kích hoạt theo một mô thức – tức kiểu cách – độc nhất vô nhị. Mỗi khi ta cảm nhận bất cứ điều gì, dù là một thoáng mùi quế, một bài hát êm tai hoặc một hình ảnh trực quan, một chùm tín hiệu sẽ kích hoạt các tế bào thần kinh ở một số vùng não. Trong điều kiện phù hợp (chẳng hạn, nếu bạn đang chú ý), các mối nối giữa các tế bào thần kinh này sẽ tự động được gia cố. Nếu nhóm tế bào thần kinh này sau đó lại tiếp tục được kích thích hệt như vậy – chẳng hạn, lại có mùi quế thoảng qua – mạng lưới thần kinh sẽ “kích hoạt” một cách dễ dàng hơn trước và bạn “ghi nhớ” mùi này. Cảm giác ban đầu được lưu trữ thành các cụm mối nối riêng rẽ. Mô thức này càng được kích thích thường xuyên thì mối nối giữa các tế bào thần kinh trong mô thức càng nhạy cảm và vững bền. Quá trình hình thành ký ức này được tóm tắt theo nguyên lý “tế bào thần kinh nào kích hoạt nhau sẽ kết nối với nhau”.
Việc học không chỉ kết nối tế bào thần kinh theo mô thức mới mà còn kích thích tế bào thần kinh tạo ra các kết nối mới (gọi là khớp thần kinh) bằng các bộ phận nối dài li ti dạng rễ gọi là sợi nhánh.
Ý tưởng cho rằng não biến đổi cấu trúc do học tập – một hiện tượng gọi là tính khả tố (plasticity) – đã xuất hiện vào giữa những năm 1960 từ các nghiên cứu trên động vật của Marion Diamond, một giáo sư giải phẫu học tại Đại học California, Berkeley. Diamond phát hiện ra rằng khi chuột được cho vào một môi trường nhiều kích thích hơn, các tế bào thần kinh của chúng sẽ sinh ra các sợi nhánh mới và sản sinh ra nhiều hơn một hóa chất não quan trọng mang tên acetylcholine. Độ tuổi của chuột không tạo nên sự khác biệt. Não của những con chuột già hơn cũng phản ứng mạnh mẽ với môi trường đầy kích thích hệt như não của những con chuột trẻ. Nhiều nghiên cứu tiến hành sau các thí nghiệm tiên phong đó cũng chứng minh rằng hiện tượng này xảy ra với tất cả động vật, gồm cả con người. Nói tóm lại, não tích cực sinh sôi và tự kết nối để đáp ứng lại sự kích thích và học hỏi.
Hai tế bào thần kinh phóng đại 100.000 lần cho thấy các sợi nhánh, thân nơron, sợi trục và khớp thần kinh với các sợi hậu hạch (postsynaptic neuron). Bất kể tuổi tác, một môi trường kích thích với các hoạt động đầy thử thách sẽ khiến sản sinh ngày càng nhiều các sợi nhánh, trục sợi nhánh (dendritic spines), tế bào đệm và các khớp thần kinh (điểm tiếp hợp giữa các tế bào thần kinh), giúp nâng cao năng lực não bộ và sự giao tiếp giữa các tế bào thần kinh.
Ví dụ, các nghiên cứu ảnh quét não đã phát hiện ra cánh tài xế taxi tại London có một vùng phình to ở vùng hồi hải mã (hippocampus) – vùng não chuyên điều hướng trong không gian ba chiều. Kinh nghiệm của các tài xế đối với đường phố London quá phức tạp đã “luyện” vùng não ấy, và kết quả là nó tăng trưởng. (Không có sự suy thoái nào về hồi hải mã ở các tài xế lớn tuổi nhất trong cuộc nghiên cứu so với những tài xế trẻ tuổi hơn). Kết quả tương tự đã được báo cáo trong một nghiên cứu về các nhạc sĩ, mà người ta phát hiện họ có sự gia tăng đáng kể công năng tại các vùng não liên quan đến thính giác và sự phân biệt âm điệu và âm vực.
Tôi ngờ rằng ảnh quét não bà hàng xóm của tôi, Lorraine Kennedy, sẽ cho thấy sự tăng trưởng mạnh mẽ tương tự ở một số vùng não. Kennedy, vừa tròn 90, là nhân vật huyền thoại về kiến thức lịch sử địa phương. Bà là một nguồn dữ liệu không sai sót về việc ai đã sống ở đâu, vào khi nào, trong những ngôi nhà theo phong cách Victoria trên con phố của chúng tôi. Bất cứ khi nào cần làm sáng tỏ một kiến thức lịch sử, dân chúng đều tìm đến bà và chẳng cần máy tính, công cụ kỹ thuật số hoặc sổ sách gì cả, bà moi thông tin từ trong ký ức – và đôi khi còn thêm cả một loạt dữ liệu đi kèm. Vùng não bộ của bà, nơi chứa tất cả kiến thức này, ắt hẳn trông sẽ phong phú và phức tạp hơn vùng tương ứng trong não của một người trẻ.
Cấu trúc thần kinh phức tạp của não bộ lớn tuổi, được tôn tạo qua nhiều năm kinh nghiệm, thực hành và đời sống thường nhật, là một ưu thế cơ bản của người lớn tuổi. Và càng phức tạp thì cấu trúc này càng hiệu quả trong việc chống lại sự thoái hóa do chấn thương hoặc bệnh tật.
Tất nhiên, não bộ và cấu trúc của nó không tĩnh tại. Não của chúng ta hơi giống căn biệt thự Monticello mà Thomas Jefferson đã cất lên và sau đó sửa sang trong nhiều năm sinh sống. Bằng cách tiếp tục học hỏi và có những trải nghiệm mới, chúng ta có thể chủ động duy trì, tạo dựng và tái cấu trúc lại não bộ của mình để nó hoạt động hiệu quả và sáng tạo hơn. Để được như vậy cũng cần tránh một số thứ. Sự căng thẳng, rượu và ma túy quá độ, nếp sống không vận động, hút thuốc, tình trạng béo phì, suy dinh dưỡng và sự tách biệt với xã hội đều làm suy yếu siêu cấu trúc thần kinh của não. Thực tế, không phải sự lão hóa mà đây mới đích thị là những thủ phạm khiến thần kinh suy thoái theo tuổi tác.
Có một khía cạnh về não bộ thường bị hiểu lầm, khiến người ta tự suy nghĩ bất lợi về năng lực trí óc của bản thân. Một số người ngộ nhận rằng năng lực trí óc nằm “hoàn toàn trong gen” và rằng bất cứ điều gì đã bị chi phối bởi gen di truyền, như màu mắt hoặc nét mặt, thì không cách gì thay đổi. Dĩ nhiên, gen có rất nhiều quyền năng và, nói chung, các gen chúng ta thừa hưởng vẫn định ra một số giới hạn đối với thành tích của chúng ta về tinh thần hoặc thể chất. Chẳng hạn, cho dù cố công luyện tập đến đâu, không phải ai cũng có thể trở thành vận động viên Olympic. Nhưng quyền lực của gen không mang tính toàn năng – không hề. Thay vì ấn định một khuôn khổ bất di bất dịch cho cơ thể và hành vi của chúng ta, hóa ra gen lại rất nhạy cảm với môi trường, với những gì ta tiếp cận, những gì ta nhận thức, cảm xúc của ta, sự căng thẳng của ta và một loạt các yếu tố khác trong cuộc sống. Nhiều gen có “công tắc” để hoạt động – chúng có thể được bật hoặc tắt, hoặc mức độ hoạt động của chúng có thể được điều chỉnh tăng hoặc giảm như âm lượng.
Hàng ngàn gen tham gia vào sự tăng trưởng và duy trì hoạt động của não bộ. Thật ra, não bộ sử dụng nhiều phần nhất của bộ gen con người so với bất kỳ cơ quan nào khác. Nhiều gen trong số này đáp ứng lại các kích thích thần kinh của sự học tập. Khi thách đố não, ta không chỉ chủ động định hình các tế bào thần kinh hiện có và kích thích chúng tăng trưởng mà còn kích hoạt các gen chủ chốt để sản xuất nguyên liệu thô cần thiết hầu phát triển trí óc. Khác với những gì hầu hết mọi người nghĩ, quan hệ giữa chúng ta và bộ gen giống như một vũ điệu hơn, mà cũng là một cơ chế quả thật đầy hứa hẹn.
Câu chuyện của Estelle
Ta có thể thấy tiềm năng lý thú của não bộ cao niên qua Estelle Jansen, 71 tuổi, một người tham gia trong cuộc nghiên cứu của tôi về những người ở tuổi hưu. Estelle sống độc lập trong một cộng đồng hưu trí mà bà đã dọn đến sau khi người chồng qua đời.
Cuộc sống của Estelle phong phú và trọn vẹn. Chồng bà, người bà đã chung sống 41 năm, là một quan chức ngoại vụ, và công việc của ông đã đưa họ đến nhiều nước trên thế giới. Estelle thích trải nghiệm cuộc sống ở nước ngoài và luôn cố gắng học ngôn ngữ địa phương ở bất cứ nơi đâu họ đến.
Hồi tâm sau cái chết của chồng, Estelle lại bắt đầu cảm thấy muốn có những trải nghiệm mới mẻ và thách thức. Bà quyết định lấy bằng thạc sĩ về lịch sử, bất chấp một số hạn chế như thiếu kỹ năng máy tính và nỗi lo không biết có theo kịp các bạn đồng môn ở tuổi đôi mươi. Nhưng bà đã lao vào cuộc, trước tiên theo học một khóa về máy tính dành cho người lớn tuổi bước đầu đến với công nghệ. Bà bảo rằng: “Giống như học một ngoại ngữ”, và nhanh chóng học những kỹ năng cần thiết để theo đuổi chương trình học.
Với các môn lịch sử, bà phát hiện thấy các bạn đồng môn trẻ tuổi rất thích phần đóng góp của bà trong các buổi thảo luận trên lớp. Và do tập trung vào việc học – chẳng hạn như dành nhiều thời gian cho các bài tập tự chọn hơn mức yêu cầu – bà đã rất thành công trong các môn học. Khi gặp tôi, bà vừa hoàn tất học kỳ đầu tiên và giành được toàn điểm tốt. “Tôi theo chương trình rất ổn, cảm ơn nhé!”, bà chia sẻ.
Bạn có thể cho rằng não bộ của Estelle là ngoại lệ khi vẫn linh hoạt và tiếp thu việc học ở tuổi 70. Nhưng thực tế, tất cả những người lớn tuổi, trừ phi họ đang bị chấn thương hay bệnh tật, đều có cùng khả năng học hỏi, phát triển và cảm nhận về sự thỏa mãn và hài lòng khi đạt được thành tích mới. Thực tế, nhóm sinh viên tốt nghiệp đại học đang gia tăng nhanh nhất là những người trên 50 tuổi, một xu hướng chứng minh cho quan điểm lạc quan về tiềm năng của não bộ lớn tuổi.
Tế bào não mới, tiềm năng mới
Suốt nhiều thập kỷ, một trong những tiên đề vững chắc nhất của ngành thần kinh học là các tế bào thần kinh không thể tái tạo và não không sinh ra tế bào thần kinh mới. Thế rồi, đầu thập niên 1960, Joseph Altman, thuộc Viện Công nghệ Massachusetts, đã có một khám phá gây kinh ngạc rằng các tế bào thần kinh mới vẫn có thể hình thành – ít nhất ở chuột. Cụ thể, ông đã thấy các tế bào mới phát triển trong hồi hải mã của chuột trưởng thành, một vùng não rất quan trọng đối với sự hình thành ký ức mới. Năm 1998, các nhà khoa học đã chỉ ra rằng não người trưởng thành cũng sinh ra tế bào thần kinh mới, một quá trình được gọi là sinh tạo thần kinh (neurogenesis). Hóa ra nhiều vùng não cũng có các nguyên bào mà, trong điều kiện nhất định, có thể phát triển thành các tế bào thần kinh đầy đủ chức năng (neuron) hoặc các tế bào não được gọi là tế bào thần kinh đệm (glia), vốn sẽ hỗ trợ về cơ vận và dinh dưỡng cho các tế bào thần kinh. (Có lẽ chẳng phải ngẫu nhiên mà lúc khám nghiệm tử thi, não của Einstein đã được thấy có các tế bào thần kinh đệm nhiều hơn đáng kể hơn so với mức trung bình).
Những phát hiện đáng chú ý này thật đầy ý nghĩa, không chỉ trong việc điều trị các căn bệnh suy thoái não – như Parkinson và Alzheimer, mà còn đối với bất cứ ai quan tâm đến việc bảo toàn hoặc nâng cao năng lực trí óc của mình. Những phát hiện này đã mở ra khả năng chúng ta đích thực có thể kiến tạo (hoặc tái kiến tạo) não của mình.
Giờ chúng ta biết rằng các tế bào não mới có thể hình thành ở các vùng não quan trọng khác. Năm 1999, một nhóm khoa học gia tại Đại học Princeton, dẫn đầu bởi nhà tâm lý học Elizabeth Gould, đã thấy rằng: Ở khỉ, tế bào thần kinh mới có thể sinh ra ở nhiều vùng của vỏ não, khu vực mà ở người sẽ chịu trách nhiệm về các chức năng “cao cấp”, chẳng hạn như suy nghĩ, hoạch định, ra quyết định và kiểm soát cảm xúc.
Các nhà nghiên cứu đang bắt đầu chú tâm tìm hiểu điều gì đã gây ra sự sinh trưởng tế bào thần kinh mới, dù vẫn chưa hiểu nhiều về quá trình này. Hoạt động thách thức thần kinh chắc chắn sẽ kích thích sự tăng trưởng tế bào thần kinh, nhưng một hoạt động khác cũng có tác dụng hệt như vậy mà ít ai ngờ: Sự tập luyện thể chất cao độ. Việc luyện tập dường như “bồi bổ” não bộ bằng cách kích thích tạo ra các hóa chất gọi là nhân tố tăng trưởng não. Các hợp chất này lại kích thích các nguyên bào não tăng trưởng thành tế bào thần kinh. Ngược lại, sự căng thẳng triền miên dường như kiềm tỏa đáng kể việc tạo ra tế bào thần kinh mới. Các nghiên cứu cho thấy sự căng thẳng về thể chất lẫn tâm lý đều làm giảm mức tăng trưởng các tế bào mới trong vùng hồi hải mã. Bệnh nhân trầm cảm hoặc rối loạn stress hậu chấn thương cũng giảm thể tích hồi hải mã, trong khi việc điều trị tạo ra hiệu ứng ngược lại.
Việc phát hiện não có thể sinh ra tế bào mới ở tuổi trưởng thành đã làm thay đổi quan niệm về não bộ lớn tuổi và tiềm năng đẩy mạnh chức năng não ở người lớn tuổi. Chẳng hạn, Gerd Kempermann, thuộc Khoa Thần kinh học Thực nghiệm tại Đại học Humboldt, Berlin, cho biết các nghiên cứu được tiến hành trong khoa của ông cho thấy sự sinh phát tế bào thần kinh đã giúp não lớn tuổi “không ngừng diễn ra sự dung nạp cái mới”. Nói cách khác, sự sinh phát tế bào có thể đã đóng một vai trò trong việc gợi cảm hứng cho cha vợ của tôi trong vụ giao bánh pizza và giúp Estelle Jansen theo học tốt chương trình sau đại học ở tuổi 70.
Fred Gage, tại Phòng thí nghiệm Di truyền thuộc Viện Salk, một trong những người đồng khám phá sự sinh phát tế bào thần kinh ở não trưởng thành, lưu ý rằng “đã đến lúc có một sự hiểu biết mới về não bộ người trưởng thành” và nhấn mạnh rằng thậm chí một bộ não người lớn bị hư hại vẫn có nhiều xác suất giữ được một số khả năng chữa lành và hồi phục. Tất nhiên, do ký ức được lưu trữ theo mô thức kết nối giữa các tế bào thần kinh hiện hữu, tế bào thần kinh mới sẽ không đảm bảo phục hồi ký ức bị mất do bệnh tật hoặc chấn thương. Nhưng khả năng não sinh sôi tế bào thần kinh mới là một trong những khám phá thú vị nhất trong thần kinh học và là một lý do lớn để lạc quan về tiềm năng của não ở nửa đời về sau.
Cảm xúc cân bằng
George Barker là một chàng trai thông minh, nghịch ngợm, con của một người thợ sơn nhà. Khi Thế chiến II nổ ra, anh chàng gia nhập không quân và trở thành một phi công lái máy bay ném bom. Như nhiều cựu chiến binh, trải nghiệm về chiến tranh và nguy cơ tử trận đã tác động sâu sắc đến George – mặc dù trong những thập kỷ sau chiến tranh, George hiếm khi nhắc về nó. Từ tiền tuyến trở về, chàng trai vào nghề báo chí, kết hôn và tạo dựng gia đình. Thế rồi, đến ngoài 60, ông được chẩn đoán mắc bệnh bạch cầu, một dạng ung thư bạch cầu làm suy yếu hệ miễn dịch.
Bác sĩ khuyên ông nên tránh đi lại cũng như bất kỳ sự giao tiếp nào khiến phải tiếp xúc với nguồn bệnh, chẳng hạn như chơi đùa với các cháu. Ông đã gạt bỏ lời khuyên ấy.
“Tôi đi qua chiến tranh dưới làn đạn mỗi ngày”, ông nói. “Không có lý gì tôi phải sống trong nỗi sợ sẽ bị nhiễm cảm lạnh”.
Sau khi tăng cường các biện pháp dự phòng, ông lại tiếp tục đi du lịch, thăm viếng gia đình, sống hết mình và vui tươi. Một căn bệnh, vốn có thể khiến một người trẻ trở nên trầm cảm hoặc ẩn dật, đã trở thành một thách thức, nhưng không phải một trở ngại.
Trong vô số thành kiến và ngộ nhận tiêu cực về lão hóa, có một quan điểm cho rằng nhiều người lớn tuổi bị trầm uất bởi bệnh tật thể chất mà phải thừa nhận rằng, cũng phổ biến hơn theo tuổi tác. Tuy nhiên, trong thực tế, nghiên cứu cho thấy tỉ lệ trầm uất ở tuổi cao niên không cao hơn ở độ tuổi mới trưởng thành. Nhiều nghiên cứu cho thấy nghị lực cao ở người lớn tuổi, thậm chí với cả những người ốm yếu. Nhân sinh quan tích cực của những người như Estelle Jansen và George Barker không phải ngoại lệ – mà là quy luật. Tôi còn nhớ lại một hôm đã chúc một bà 74 tuổi, người tham gia một cuộc nghiên cứu của tôi, “Chúc bà một ngày vui tươi nhé!”.
Bà cười đáp lại, “Tôi sẽ làm cho ngày hôm nay vui tươi!”.
Nhiều tác nhân góp phần tạo nên nhuệ khí và nhân sinh quan tích cực ở rất nhiều người lớn tuổi, như thái độ dễ chấp nhận thực tại cuộc sống, ý thức cao về bản thân, và một tầm nhìn dài hạn khiến dễ chấp nhận những trở ngại và khó khăn trong cuộc sống thường ngày. Tuy nhiên, ngoài các yếu tố tâm lý ấy, bằng chứng mới cho thấy chính các biến đổi trong não bộ lớn tuổi đóng một vai trò quan trọng trong sự cân bằng cảm xúc và thái độ bình thản của nhiều người lớn tuổi.
Phản ứng cảm xúc ở con người được tạo ra và điều tiết bởi một chuỗi cấu trúc nằm sâu trong não gọi là hệ biên (limbic system, còn gọi là hệ viền). Những cấu trúc này đã được hình thành bởi hàng triệu năm chọn lọc tự nhiên để định hướng hành vi theo những phương cách có lợi cho sự sinh tồn và sinh sản. Các cảm xúc tích cực như tình cảm, gắn bó, tình yêu, hoan lạc và hạnh phúc đều phát sinh từ hoạt động điện học và hóa học trong hệ biên nhằm phản ứng lại các tín hiệu bên ngoài như: Sự gần gũi với đối ngẫu tiềm năng; xác suất lấy được thức ăn, tình trạng và mức độ an toàn; và, ở con người, sự thỏa mãn những động lực cao cấp hơn như tính tò mò và sự biểu đạt nghệ thuật hay âm nhạc.
Mặt cắt não bộ bên trong và hệ biên. Hệ biên là một nhóm cấu trúc giải phẫu, gồm hồi hải mã, hạch hạnh nhân, các phần của vỏ não, và các phần của vùng dưới đồi, có chức năng như trung khu của não phụ trách về động lực và cảm xúc.
Các cảm xúc tiêu cực như sợ hãi, giận dữ, ghen tị, ghê tởm và trầm uất nảy sinh để đáp lại các sự kiện hoặc tình huống đe dọa sự sống còn, an lạc hoặc ý thức về công bằng. Một số cảm xúc tiêu cực là bẩm sinh. Chẳng hạn, tức giận là một phản ứng gần như phổ biến khi cảm nhận sự bất công với mình. Và một số nỗi sợ, như sợ rắn, nhện hoặc độ cao, có yếu tố di truyền trong đó. Nhưng nỗi sợ, sự tức giận và những cảm xúc tiêu cực khác cũng có thể học được, chẳng hạn một người mẹ, bị chứng nghi bệnh (hypochondriac), cứ ấp ủ nỗi sợ con mình nhiễm bệnh; hoặc một người cha, với tính khí nóng giận, sẽ truyền đi thông điệp một cách vô thức rằng sự tức giận là phản ứng tất yếu hoặc thỏa đáng trước những khó khăn của cuộc sống.
Một khía cạnh đặc biệt quan trọng của hệ cảm xúc ở con người là cách các hệ này kết nối với tân vỏ não (neocortex), tức lớp mô não dày phủ lên hệ biên. Tân vỏ não thực hiện nhiều chức năng, trong đó có việc mang lại cho chúng ta ý thức tự giác cũng như các thuộc tính ý thức “cấp cao” như đạo đức, niềm tin, ý định, mục tiêu và nguyện vọng.
Lượng sợi thần kinh chạy từ hệ biên lên tới vỏ não nhiều hơn hẳn so với lượng chạy từ vỏ não trở ngược xuống đến hệ biên. Nếu hoạt động thần kinh được ví như nước, hệ biên sẽ nối đến vỏ não bằng vòi rồng chữa cháy và vỏ não sẽ nối ngược trở lại hệ biên bằng một ống hút. Sự kết nối mất cân đối một cách cơ bản này có nghĩa rằng cảm xúc có thể dễ dàng áp đảo và chế ngự lý trí, khống chế vùng não bộ của chúng ta. Xét theo quan điểm tiến hóa, điều này hoàn toàn hợp lý: Những động vật nào phản ứng một cách nhanh nhạy và không cần suy nghĩ khi cảm nhận được mối đe dọa sẽ có nhiều cơ hội sống còn hơn những động vật suy xét tình hình trước khi phản ứng.
Tuy nhiên, đối với con người, sự mất cân bằng não cơ bản giữa lý trí và cảm xúc đã gây ra cho chúng ta đủ mọi rắc rối. Sự giằng co giữa điều ta biết là đúng và điều ta muốn làm chính là nội dung cốt lõi của đa số các tác phẩm nghệ thuật và văn chương. Sự bất lực thường xuyên trong việc chế ngự cảm xúc và ham muốn là một trong những đặc điểm nổi bật của loài người. Khả năng kiểm soát cảm xúc và điều tiết hành vi một cách phù hợp chính là một dấu hiệu của sự trưởng thành.
Khả năng vượt qua cơn bão cảm xúc một cách nhanh chóng và linh hoạt là một thành quả lớn của tuổi tác. Điều này một phần là do quá trình học tập, trải nghiệm và thực hành, vốn kích thích sự phát triển các sợi nhánh mới và, đôi khi, tế bào thần kinh hoàn toàn mới. Tình trạng này có nghĩa rằng ta thực sự có thể bắt đầu cân chỉnh sự kết nối bất cân bằng giữa hệ biên và vỏ não. Trong thực tế, ta có thể tạo ra thêm nhiều đường dây kiểm soát để kết nối bản thể “cao cấp” của ta với các trung tâm cảm xúc.
Nhưng đó không phải là tất cả. Chính hệ biên tự nó cũng trở nên trầm tĩnh hơn theo tuổi tác. Một trọng tâm nghiên cứu hiện nay là khối amiđan, hai cấu trúc hình quả hạnh nhân trong hệ biên vốn tạo ra một số cảm xúc mãnh liệt nhất của chúng ta. Amiđan được bố trí để can thiệp vào luồng thông tin cảm giác đi từ đôi mắt, đôi tai và mũi của ta; nếu thông tin đó chứa mối đe dọa tiềm tàng, amiđan ngay lập tức bắn ra các xung có thể làm thay đổi hành vi của ta, thậm chí trước khi các tín hiệu kịp được xử lý đầy đủ và diễn giải bởi vỏ não. Đó là lý do tại sao tim của bạn bắt đầu đập thình thịch khi thấy hai người đàn ông tiến về phía mình trên vỉa hè tối tăm. Những người này có thể là một mối đe dọa hoặc không, nhưng amiđan của bạn không quan tâm và cứ chuẩn bị cho chuyện tồi tệ nhất.
Con người khác nhau rất nhiều về mức độ phản ứng của amiđan. Cũng như nét mặt, cấu trúc não bộ của mỗi người mỗi khác. Một số người có amiđan rất mẫn cảm và nhạy phản ứng – họ dễ giật mình, “nóng nảy”, hoặc có các phản ứng cơ thể dữ dội trước các tình huống đáng sợ. Những người khác có amiđan tương đối trầm tĩnh và do đó có vẻ “nguội”, nhiều lý trí, ít phản ứng và vô cảm. Nhưng với hầu hết mọi người, rất khó kiểm soát amiđan – và càng trẻ thì ta càng khó chế ngự nó.
Giờ là lúc bàn đến một số nghiên cứu gần đây về não bộ lớn tuổi. Các cuộc nghiên cứu thông qua kỹ thuật quét ảnh não như chụp quét cắt lớp phát xạ positron – (PET) cho thấy hoạt động trong amiđan giảm theo tuổi tác, nhất là khi phản ứng lại các cảm xúc tiêu cực như sợ hãi, giận dữ và căm ghét.
Một nghiên cứu của Mather Canli và các đồng nghiệp thuộc Khoa Tâm lý tại Đại học California, Santa Cruz, đã cho thấy rằng, theo tuổi tác, người ta:
• Ít gặp phải những cảm xúc tiêu cực mãnh liệt
• Ít chú ý đến các kích thích từ cảm xúc tiêu cực hơn so với từ cảm xúc tích cực
• Ít nhớ đến những gì mang cảm xúc tiêu cực hơn so với những gì mang cảm xúc tích cực
Như tác giả của cuộc nghiên cứu này đã đúc kết: “Các phát hiện này cho thấy rằng, với tuổi tác, khối amiđan có thể tỏ ra suy giảm phản ứng đối với thông tin tiêu cực trong khi vẫn duy trì hoặc gia tăng phản ứng đối với thông tin tích cực”.
Tóm lại, những người lớn tuổi thường trầm tĩnh hơn khi đối mặt với thách thức của cuộc sống. Nói như một người đã tham gia cuộc nghiên cứu hưu niên của tôi: “Tôi ít bức xúc hơn về mọi chuyện và ít cầu toàn hơn. Những việc nhỏ nhặt không làm tôi bực, và tôi đánh giá mọi chuyện tốt hơn”. Giờ đây, ta biết rằng khía cạnh tích cực này của tuổi tác là kết quả của không chỉ kinh nghiệm và học tập mà của cả những thay đổi cơ bản trong chức năng não.
Cuộc đại tu mãnh liệt của não bộ cao niên
Khi con người tiến hóa và hình thành được năng lực vạch chiến lược để sinh tồn, như sử dụng công cụ và ngôn ngữ, não bộ con người gia tăng về kích thước. Nhưng thiên nhiên có một vấn đề: Đầu người không thể phát triển lớn hơn, bởi vì cuối cùng nó sẽ không vừa với đường dẫn sinh (the birth canal). Xương chậu phụ nữ chỉ có thể lớn đến mức đó nếu muốn giữ ổn định toàn bộ cơ thể. Làm sao đây?
May thay, não bộ, giống một số cơ quan khác như mắt, tai, phổi và thận, là một cấu trúc kép. Chúng ta thật ra có hai não, trái và phải, nối với nhau bằng một loại liên kết thần kinh giải rộng (broadband neural link) được gọi là thể chai. Giải pháp của thiên nhiên đối với nhu cầu gia tăng các vùng não xử lý chuyên biệt chính là phân chia lao động: Một số năng lực sẽ được xử lý chủ yếu bởi bán cầu não trái, những năng lực kia bởi não phải. Do đó, với hầu hết mọi người (có một số trường hợp ngoại lệ thú vị), lời nói, ngôn ngữ, lý luận toán học và logic được xử lý bởi bán cầu não trái. Bán cầu não phải có xu hướng chuyên về các chức năng như nhận dạng khuôn mặt, nhận thức thị giác – không gian, và các thao tác trực quan/toàn diện, chẳng hạn như những yếu tố nền tảng trong sáng tạo nghệ thuật.
Người ta đã xác định được phần lớn các khác biệt về chức năng của hai bán cầu não, nhưng không phải tất cả đều có căn cứ khoa học vững chắc. Một số người đề cập đến “người não trái” và “người não phải” hoặc phụ nữ thiên về “não phải” hơn và nam giới thiên về “não trái” hơn. Tuy nhiên, hầu như đây chỉ là sự ẩn dụ. Nam và nữ khỏe mạnh đều cần cả hai bên não bộ và sử dụng cả hai bên suôn sẻ và liên tục suốt đời. Mặc dù mọi người chắc chắn khác nhau về ưu thế tương đối của hoạt động bán cầu não, việc quy kết những sự lựa chọn nghề nghiệp cho bên này hay bên kia của não là sự hiểu sai kiến thức.
Tuy nhiên, ở cấp độ chức năng não cụ thể, chúng ta có thể nói một cách chính xác sự khác biệt giữa não trái và phải. Hóa ra trong suốt giai đoạn đầu đời, não thường sử dụng chủ yếu mỗi lúc chỉ một bên để làm những việc như giải mã văn tự, phát ngôn hoặc nhận dạng các mô thức. Việc sử dụng một bên não được gọi là vận dụng đơn bán cầu; việc sử dụng cả hai bên được gọi là vận dụng song bán cầu.
Trong quá trình nghiên cứu qua ảnh quét PET và ảnh chụp cộng hưởng từ, các nhà khoa học nhận thấy một điều bất ngờ xảy ra ở não bộ của người lớn tuổi. Chẳng hạn, khi những người trẻ tuổi truy xuất một từ cụ thể trong trí nhớ, họ thường sử dụng chủ yếu não phía trái. Thế nhưng, những người lớn tuổi lại thường sử dụng cả hai bán cầu để làm việc đó. Hiện tượng này đã được quan sát thấy ở các tác vụ khác nữa, chẳng hạn như nhận dạng gương mặt, truy cập trí nhớ và một số hình thức cảm nhận. Vùng não được khảo sát trong các cuộc nghiên cứu này là vỏ não trán trước ở cả hai bán cầu, nằm ngay phía sau trán. Phần lớn công trình này đã được mô tả bởi Roberto Cabeza, thuộc Trung tâm Thần kinh học Nhận thức tại Đại học Duke. Ông gọi hiện tượng này là “suy giảm bất đối xứng bán cầu ở người cao niên” – viết tắt là HAROLD (hemispheric asymmetry reduction in older adults).
Những phát hiện này đã gây bối rối. Liệu sự vận dụng song bán cầu ở người lớn tuổi có phản ánh tình trạng suy hoại? Có phải đó là nỗ lực tuyệt vọng của não bộ lão hóa nhằm huy động nhiều năng lực não bộ hơn để giải quyết vấn đề? Hay đó là một điều tích cực – có thể là một cách để não tạo vùng “thặng dư” – một hệ thống dự phòng, chẳng hạn?
Để so sánh hai giả thuyết này, Cabeza đo hoạt động não trong một loạt thao tác trí nhớ với sự tham gia của ba nhóm: trẻ tuổi, lớn tuổi hoạt động trí não thấp, và lớn tuổi hoạt động trí não cao. Ông thấy rằng những người lớn tuổi hoạt động trí não thấp sử dụng các vùng vỏ não trước trán phải tương tự như các vùng sử dụng bởi những người trẻ, nhưng những người lớn tuổi hoạt động trí não cao lại sử dụng cả hai bán cầu. Những phát hiện này cho thấy mặc dù người lớn tuổi hoạt động trí não thấp và những người trẻ tuổi dùng cùng mạng lưới tế bào não, các đối tượng lớn tuổi sử dụng chúng không hiệu quả (do ít hoạt động), trong khi những người lớn tuổi hoạt động trí não cao khắc phục sự suy thoái thần kinh do tuổi tác bằng cách tái tổ chức mạng lưới thần kinh của họ.
Đây là một thông tin hết sức thú vị. Mặc dù chúng ta vẫn chưa hiểu chính xác não bộ của người lớn tuổi tự tái tạo ra sao để trở nên hiệu quả hơn và đắc lực hơn, nhưng rõ ràng não đã làm như vậy. Hiện tượng này có thể liên quan đến một hiện tượng khác của tuổi cao niên: Sở thích lý giải cuộc đời mình bằng cách viết và nói về nó.
Câu chuyện của Charles
Charles Pugh, nay 92 tuổi, đã nghỉ hưu ở tuổi 72 sau những năm dài làm việc cho cơ quan thuế. Ông dễ dàng chuyển sang một đời sống ít áp lực hơn, với rất nhiều thứ mà trước đây ông yêu thích nhưng chưa bao giờ có thời gian tận hưởng: câu cá, đọc sách, chơi bowling với bạn bè, và dành thời gian với vợ. Một hôm, trong bếp, vợ ông bộc bạch rằng bà bực mình vì đã cho ai đó mượn cái lò nướng nhưng không thể nhớ ra đó là ai. Charles cáo lui trong giây lát, biến mất vào phòng làm việc và chẳng mấy chốc quay trở lại với danh tính của người bạn đã mượn cái lò – và cả ngày tháng.
Ngạc nhiên, vợ ông gạn hỏi làm thế nào ông biết được. Charles dẫn bà vào phòng làm việc của mình và chỉ xuống ngăn dưới cùng của chiếc kệ sách chạy dọc suốt chiều dài của căn phòng. Nơi đó, xếp thành một hàng gọn gàng đều tăm tắp là những cuốn nhật ký mà Charles đã tích lũy suốt những năm sau khi nghỉ hưu. Với thời gian hưu trí đầy rảnh rỗi, Charles đã quyết định viết nhật ký. Trước tiên ông ghi lại những chi tiết thật chi li và vặt vãnh trong đời sống như chuyện chiếc lò nướng. Nhưng dần dà ông ghi chép thêm cả những nhận xét và suy ngẫm của mình về cuộc đời. Một việc khởi đầu chỉ nhằm ghi chép đơn sơ – mà với Charles là một cách viết lưu bút quen thuộc – đã biến thành một tài liệu tự thuật tiểu sử bản thân, với nhiều chất liệu, đầy màu sắc và chi tiết tỉ mỉ (và cũng thường hữu ích).
Viết tự truyện và kể chuyện là việc phổ biến ở những người lớn tuổi, và nó bắt nguồn từ rất nhiều sự thôi thúc, một số từ yếu tố tâm lý (như ước muốn tìm thấy ý nghĩa và mô hình của cuộc sống lâu nay) và một số mang tính thể chất. Sự bày tỏ bằng tự truyện ở tuổi cao niên dường như là một ví dụ về sự vận dụng song bán cầu não.
Trong một nghiên cứu, các nhà khảo sát đã khảo nghiệm hoạt động não ở người trẻ tuổi và người lớn tuổi khi họ nhớ lại các sự kiện cụ thể trong đời. Vùng não họ nghiên cứu là hồi hải mã, vốn rất hệ trọng đối với trí nhớ. Hai nhóm tuổi đều có hiệu quả hồi tưởng tương đương nhau, nhưng người trẻ tuổi chủ yếu sử dụng hồi hải mã trái, trong khi người lớn tuổi sử dụng cả hai hồi hải mã trái và phải.
Có lẽ nhu cầu kể tự truyện ở người lớn tuổi phần nào liên quan đến việc tái sắp xếp các chức năng não, khiến họ thuận lợi hơn trong việc phối hợp não trái, đặc trách về lời lẽ, ngôn ngữ và tư duy tuần tự, với não phải thiên về sáng tạo và tổng hợp.
Chúng ta cần tìm hiểu rất nhiều xem người lớn tuổi có thể tận dụng ra sao các kết quả nghiên cứu về sự vận dụng cả hai bán cầu não theo tuổi tác. Có lẽ các tác vụ hoặc hoạt động cụ thể nào đó đã khuyến khích sự phối hợp bán cầu. Chúng ta chưa biết, nhưng chúng ta biết khá nhiều về cách duy trì và nâng cao thể trạng não nói chung, và những hiểu biết này chắc chắn sẽ giúp cho việc vận dụng não song bán cầu theo tuổi tác nêu trên.
Sự tráng kiện của não
Chúng ta đã thấy não bộ lớn tuổi dẻo dai hơn, thích ứng hơn và giàu năng lực hơn ta tưởng, và ta đã biết bốn thuộc tính quan trọng của não để lạc quan hơn về tiềm năng con người trong nửa đời về sau: khả năng não tái định hình do trải nghiệm mới và học tập, sự sinh sôi tế bào não mới, sự trưởng thành của mạch cảm xúc và hoạt động song bán cầu ở não lớn tuổi. Giờ đây ta tập trung vào việc tận dụng lợi thế của các cơ chế não này, nhằm cải thiện thể trạng não nói chung lẫn bảo vệ cấu trúc thần kinh khỏi sự thương tổn do bệnh hoặc chấn thương.
Nghiên cứu đã xác định được năm loại hoạt động mà, nếu được thực hành thường xuyên, có thể gia tăng đáng kể năng lực, sự minh mẫn và nhạy bén của não bộ và trí tuệ. Đối với não, bất kỳ hoạt động nào trong số này cũng giống như sự rèn thể lực đối với cơ thể – một dạng vận động lành mạnh để giúp khai mở và khuếch trương tiềm năng trí óc.
Luyện tập trí não
Não bộ cũng giống cơ bắp. Dùng đến nó, nó sẽ cứng cáp, còn bỏ mặc nó, nó sẽ nhũn đi. Những phát hiện của chúng tôi trước đây về tính khả tố – tức khả năng tự tái định hình của não – đã khai sinh ra lĩnh vực thần kinh học hành vi – nghiên cứu cách mà cấu trúc não và chức năng não biến đổi do các kích thích bên ngoài. Nền móng của lĩnh vực này là khám phá đã được kiểm chứng, cho thấy sự trải nghiệm đã làm biến đổi cấu trúc não trong mọi quãng đời, từ trước khi sinh cho đến khi chết.
Các nhà thần kinh học hành vi, như Joseph LeDoux tại Đại học New York, cho biết rằng việc học tập những gì mới mẻ và thách đố sẽ đẩy mạnh sự phát triển não bộ ở nửa đời về sau vì những trải nghiệm mới tạo ra các khớp thần kinh mới và các cấu trúc thần kinh khác. Sự phát triển này cải thiện việc xử lý thông tin và ghi nhớ, nhất là trong hồi hải mã.
Bạn không cần phải noi theo Estelle Jansen, ghi danh vào trường đại học ở tuổi 70 để được như vậy. Nhiều hoạt động trí óc mang tính thách đố cũng có thể kích thích trí não, như các khóa học cộng đồng, các nhóm thảo luận câu lạc bộ sách, các nhóm viết văn, các chương trình nghệ thuật và công việc mang tính thách thức – có lương hoặc tình nguyện, toàn thời gian hoặc bán thời gian.
Hãy chọn cho mình một việc hấp dẫn và thách đố – một việc mình sẽ phải bắt tay thực hiện. Cũng như vận động thân thể, bạn nên làm đến mức trí óc phải đổ mồ hôi. Và chớ ngạc nhiên nếu một khi đã khởi sự, bạn cứ muốn tiếp tục. Một dự án mà tôi đồng chủ trì là Đoàn Khám phá Sáng tạo nhằm tìm kiếm những tài năng lớn tuổi chưa lộ diện trong cộng đồng. Một phụ nữ 93 tuổi được phỏng vấn gần đây đã báo với chúng tôi rằng có lẽ bà khó mà lên lịch cho cuộc phỏng vấn tiếp theo bởi vì đang rất bận rộn nộp hồ sơ theo học chương trình đào tạo tiến sĩ. Ấy đúng là một cuộc vận động trí óc!
Luyện tập thể chất
Ngày càng có nhiều bằng chứng rõ ràng cho thấy sự luyện tập thể chất làm tăng năng lực của não bộ. Điều này đặc biệt đúng với môn aerobic – với những bài tập liên tục, theo nhịp điệu, sử dụng các nhóm cơ lớn. Tác động tích cực của aerobic là không thể chối cãi, như lưu lượng máu đến não gia tăng, endorphin[3] được phát tiết, chất thải từ não bộ được lọc tốt hơn và nồng độ oxy trong não gia tăng. Nhiều nghiên cứu đã kiểm chứng hiệu ứng tích cực của việc luyện tập thể lực. Trong số đó phải kể:
• Một cuộc nghiên cứu tại Canada cho thấy những người năng hoạt động thể chất ít có nguy cơ bị suy giảm nhận thức, bệnh Alzheimer và chứng mất trí. Cuộc nghiên cứu cũng cho thấy càng vận động, người ta càng ít nguy cơ bị tổn hại não do đột quỵ.
• Một nghiên cứu về một nhóm phụ nữ lớn tuổi cho thấy những người tăng hoạt động thể chất bằng cách đi bộ ít bị suy thoát nhận thức và mất trí nhớ trong sáu đến tám năm tiếp theo.
• Các nghiên cứu về người cao tuổi cho thấy sự suy giảm mật độ mô não trong vỏ não diễn ra chậm hơn ở những người năng luyện tập về tim mạch.
• Các nghiên cứu cho thấy việc luyện tập tim mạch làm tăng số lượng mối nối giữa các tế bào não ở vùng trước của não, có lẽ bằng cách gia tăng mạng lưới mạch máu nhỏ ở những vùng đó.
• Các nghiên cứu cho thấy các động vật thường xuyên vận động đều học hỏi và thao tác tốt hơn. Những nghiên cứu này chứng minh rằng sự vận động kích thích sản sinh các hóa chất thần kinh quan trọng, vốn giúp gia tăng sức sống cho tế bào não, khả năng tái định hình thần kinh và sự sinh trưởng các tế bào thần kinh mới.
Hãy chọn các hoạt động giải trí mang tính thử thách
Loại hình giải trí của ta ảnh hưởng đến thể trạng não của ta. Một nghiên cứu về sự liên quan giữa các hoạt động giải trí và nguy cơ mất trí nhớ cũng như suy giảm nhận thức cho thấy những hoạt động sau đây hiệu quả nhất (liệt kê theo thứ tự tác động):
Mức độ giảm nguy cơ phụ thuộc vào tần suất tham gia hoạt động. Ví dụ, ở những người lớn tuổi chơi ô chữ 4 ngày/tuần, nguy cơ mắc chứng mất trí nhớ thấp hơn 47% so với những người chơi chỉ 1 lần/tuần. Một nghiên cứu khác cũng cho thấy hoạt động đan len, làm việc vặt, làm vườn và đi du lịch cũng làm giảm nguy cơ mắc chứng mất trí nhớ.
Từ những gì ta biết về các yếu tố ảnh hưởng đến tính khả tố của não, các nghiên cứu này cho thấy hoạt động mang tính thách đố tạo nên một nguồn dự trữ sợi nhánh và khớp thần kinh. Những nghiên cứu này cung cấp thêm bằng chứng cho thấy việc luyện trí óc và thể chất giúp cải thiện thể trạng chung của não.
Đạt sự tinh thông
Nghiên cứu về lão hóa cũng đã phát hiện ra một thông số then chốt: cảm giác tự chủ. Những người lớn tuổi theo đuổi các hoạt động khiến họ cảm thấy tự chủ và tinh thông đều khỏe mạnh hơn về thể chất lẫn tinh thần so với những người không có cảm giác ấy. Những hoạt động ấy có thể là chơi nhạc cụ, thêu thùa, học sử dụng máy tính hoặc học ngoại ngữ. Có vô số cách. Đáng chú ý, ảnh hưởng tích cực của cảm giác tự chủ đối với sức khỏe trở nên rõ rệt hơn ở nửa đời về sau.
Sự tinh thông một lĩnh vực có thể cho cảm giác về năng lực và lan đến các khía cạnh khác trong cuộc sống, làm gia tăng mức độ dễ chịu khi người ta đến với những thách thức mới – và một lần nữa, những thách thức lại kích thích sức khỏe não bộ.
Sự tinh thông và cảm giác thành tựu có thể cải thiện sức khỏe tinh thần bằng cách thúc đẩy hệ miễn dịch. Nghiên cứu về quan hệ thân/tâm cho thấy cảm xúc tích cực thúc đẩy số lượng tế bào hữu ích trong hệ miễn nhiễm. Hai loại tế bào cụ thể đáp ứng lại những cảm xúc tích cực: Tế bào T, vốn là tế bào bạch huyết cầu lập thành hàng rào miễn dịch, và tế bào tiêu diệt tự nhiên, vốn là tế bào bạch huyết cầu lớn tấn công các tế bào khối u và các tế bào cơ thể bị nhiễm bệnh.
Thiết lập quan hệ xã hội mật thiết
Mạng lưới quan hệ bạn bè, gia đình và hoạt động xã hội giúp người lớn tuổi có sức khỏe tâm thần và thể chất tốt hơn, cũng như tỉ lệ tử vong thấp hơn. Ví dụ, việc duy trì các mối quan hệ xã hội trong nửa đời về sau gắn liền với tình trạng giảm huyết áp, khiến giảm nguy cơ đột quỵ và tổn thương não. Việc duy trì các mối quan hệ xã hội cũng giúp giảm căng thẳng và các tác hại liên quan. Các nội tiết tố từ trạng thái căng thẳng làm xói mòn cấu trúc não, làm suy yếu hệ thống miễn dịch, tạo gánh nặng cho tim, và làm suy yếu khả năng chống lại các rối loạn tâm thần như lo âu và trầm cảm.
Hoạt động xã hội cũng giúp chống lại cảm giác cô đơn, vốn thường đi cùng tiến trình lão hóa. Và tình trạng cô đơn lại gắn với một loạt các tác hại với sức khỏe, như khiến chậm phục hồi sau phẫu thuật bắc cầu động mạch vành (coronary artery bypass surgery), phải lui tới bác sĩ thường xuyên hơn, sức khỏe răng miệng kém và có nhiều nguy cơ nhập viện điều dưỡng. Do đó, các quan hệ xã hội có thể tác động sâu sắc đến sức khỏe tinh thần, cơ thể và não bộ ở nửa đời sau.
Trong chương này, chúng ta đã biết rằng não bộ lành lặn ở người lớn tuổi thì cường tráng và giàu tiềm năng hơn những gì hầu hết mọi người hình dung. Nhưng thông tin lạc quan không chỉ có chừng ấy. Về một số mặt, não là nền móng của một tòa nhà. Nó là nền tảng thực thể cho tâm trí, nhân cách và ý thức cá nhân của mỗi người. Não bộ “phần cứng” của ta có khả năng thích nghi, phát triển để trở nên phức tạp hơn và hợp nhất hơn theo tuổi tác. Nhưng đồng thời, tâm trí của chúng ta cũng tăng trưởng và tiến hóa. Đây là sự phát triển về mặt tâm lý – kiến thức thâm sâu, sự ổn định cảm xúc, tri thức, tính sáng tạo và khả năng biểu đạt. Những thay đổi trong não có thể ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển này, theo hướng tốt hơn hoặc tệ hơn. Và ngược lại cũng vậy: Cách chúng ta tiến hóa và phát triển về tâm lý cũng ảnh hưởng đến chính não bộ, hình thành các kết nối mới và mạng lưới thần kinh các kinh nghiệm mới. Giờ chúng ta chuyển sang mối quan hệ này và chủ đề hấp dẫn về sự phát triển tâm lý nói chung.
[2] Bệnh Alzheimer là một loại bệnh gây ra sự thoái hóa toàn bộ não bộ và không thể phục hồi. Các tế bào thần kinh ở vỏ não cùng với các cấu trúc xung quanh nó bị tổn thương dần dần làm giảm khả năng phối hợp vận động, rối loạn cảm giác và cuối cùng gây ra tình trạng mất trí nhớ cho người bệnh.
[3] Endorphin là chất dẫn truyền thần kinh trong não có tác dụng tạo cảm xúc tích cực, cải thiện tâm trạng. Đặc biệt, endorphin còn là chất giảm đau tự nhiên của cơ thể, giúp giảm căng thẳng tinh thần và làm chậm lão hóa.