TRAU DỒI TRÍ THÔNG MINH XÃ HỘI
Xã hội ái hòa là điều thiết yếu đầu tiên cấu thành hạnh phúc và, tất nhiên, cả giá trị sự hiện hữu của chúng ta.
• Thomas Jefferson
John và Nina Henderson khi ấy vẫn đang thích nghi với ngôi nhà trống vắng của họ. Con trai của họ đã cưới vợ, có ba con, và sống ở bờ Tây. Con gái của họ và hai cháu ngoại sống gần đó, nhưng họ không gặp con gái và các cháu ngoại thường xuyên lắm.
Thế rồi, con gái của họ ly dị, và vợ chồng Henderson chứng kiến con gái mình vừa vất vả đi làm lại vừa nuôi nấng con trai 8 tuổi và con gái 6 tuổi. Một hôm, sau khi nghe con gái phàn nàn về đứa cháu trai đang học toán sa sút, ông bà đã thử ướm lời đề nghị dọn đến ở cùng để phụ giúp. Hai ông bà vẫn luôn suy tính về việc thu hẹp nơi ở thay vì giữa căn nhà ba tầng hiện tại, và phương án này tỏ ra là một giải pháp đôi bên cùng có lợi. Người con gái đã hồ hởi đồng ý trong niềm vui của hai ông bà.
Bà Henderson, một giáo viên toán về hưu, bắt đầu dạy kèm cháu ngoại mình, và điểm số ở lớp của cậu bé đã khá lên. Ông Henderson, vốn mê làm vườn, đã bỏ ra hàng giờ đồng hồ để trồng trọt và chăm sóc rau củ với các cháu. Gia đình Hendersons giờ đây vui hưởng cuộc sống ba thế hệ, và con gái của hai ông bà nhận thấy sự hiện diện của bố mẹ thật vô giá và làm cuộc sống thêm phong phú.
Những hộ gia đình ba thế hệ như vậy không phổ biến ở Mỹ, chỉ chiếm khoảng 3% của tổng số hộ gia đình vào năm 2003. Tôi không định nói rằng hình thức này phù hợp với mọi người; chắc chắn rất nhiều người sống neo đơn đã lấp đầy sự thiếu hụt về quan hệ và cảm xúc theo cách khác và cũng thích không gian rộng rãi trong nhà họ. Quan điểm của tôi tổng quát hơn: Sự giao lưu liên thế hệ có thể đầy tính khích lệ và rất hữu ích, cho dù diễn ra giữa những người trong gia đình hoặc với người xa lạ. Và những sự tương tác như vậy của ta kích thích “trí thông minh xã hội”, năng lực duy trì quan hệ hiện hữu và tạo quan hệ mới. Trí thông minh xã hội, cũng như trí thông minh tiến hóa – mà nó vốn là một phần, thường gia tăng theo tuổi tác.
Trong nhiều năm, tôi đã nghe rất nhiều câu chuyện như chuyện nhà Henderson. Những người cao niên thường không dọn đến ở chung với con cháu, nhưng họ dọn đến ở gần để sinh hoạt gia đình được trọn vẹn hơn. Và ngày càng phổ biến việc các bậc ông bà giúp nuôi dạy các cháu những khi gia đình gặp khủng hoảng. Xu hướng này củng cố quan niệm rằng người cao niên truyền đạt những lợi thế sinh tồn quan trọng cho giống loài, vốn là một lý do thiên nhiên đã phú cho con người tuổi thọ vượt xa độ tuổi sinh sản tối đa. (Con người dường như không phải động vật hữu nhũ duy nhất được thiên nhiên áp dụng mô hình này. Nghiên cứu về cá heo xám và cá voi hoa tiêu, chẳng hạn, cho thấy những con đã quá tuổi sinh sản trong đàn cũng chăm nom, bảo vệ và thậm chí cho các cháu bú sữa).
Một lý thuyết sai lầm ngày trước
Quan điểm về tầm quan trọng của các mối quan hệ xã hội trong nửa đời về sau đã bị gạt ra trong những năm đầu người ta nghiên cứu lão học. Năm 1961, hai nhà nghiên cứu lỗi lạc thuộc Đại học Chicago, Elaine Cumming và William Henry, trình bày “lý thuyết thoát ly”. Trong công trình “Tuổi cao niên: quá trình thoát ly”, họ không thừa nhận ý niệm rằng người ta chỉ có thể hài lòng và hạnh phúc ở tuổi già khi vẫn còn năng nổ và tham gia các hoạt động. Cumming và Henry biện luận rằng sự lão hóa thường dẫn đến sự thoái thác và thoát ly một cách tự nhiên và tất yếu, “dẫn đến sự giảm thiểu tương tác giữa người già với mọi người trong xã hội”.
Phải nói rõ rằng Cumming và Henry không bịa ra lý thuyết này – họ là những nhà nghiên cứu danh giá và đã đưa ra ý niệm dựa trên những gì quan sát được trong lĩnh vực này. Vấn đề là họ đã không quan sát những người cao niên lành mạnh, mà chỉ tập trung hoàn toàn vào một khía cạnh hành vi – sự thoát ly xã hội – và không xét tất cả hành vi khác, chẳng hạn như nhu cầu rõ rệt mọi người đều muốn có tương tác về xã hội. Vấn đề này càng rối hơn nữa khi sau đó lý thuyết này được phổ biến và diễn giải sai lệch, khiến cứ như thể người già theo lẽ thường sẽ ngồi lặng lẽ trong phòng, đoạn tuyệt với đời. Một sai lầm không thể nào tệ hơn!
Các nhà nghiên cứu khác cảm nhận được những bất cập của lý thuyết thoát ly nên đã tiến hành các cuộc nghiên cứu riêng và rút ra kết luận trái ngược. Robert Havighurst, một cộng sự trong Nghiên cứu về Đời sống Cao niên của thành phố Kansas, đã công bố cái mà ông gọi là “lý thuyết hoạt động”. Ông tranh biện rằng các nhu cầu tâm lý và xã hội của người cao niên không khác gì so với của người trung niên, và quả là bất bình thường cũng như phi tự nhiên nếu người lớn tuổi trở nên tách biệt và thoát ly. Khi họ trở nên như vậy, đó thường là do những biến cố ngoài tầm kiểm soát của họ, như sức khỏe kém hoặc người thân ra đi. Các nghiên cứu trong nhiều thập niên, kể từ sau công trình tiên phong của Havighurst, đã củng cố ý tưởng của ông và gây ra sự hoài nghi về lý thuyết thoát ly. Nghiên cứu về hoạt động ở người cao tuổi, bao gồm các khảo sát sinh lý học ở não, cho thấy tác dụng hữu ích của sự giao lưu xã hội đối với thần kinh. Nhưng chúng ta đã phải mất một thời gian dài để từ bỏ quan niệm sai lầm, của khoa học lẫn cả xã hội, để hiểu được nhu cầu và tiềm năng đích thực của người cao niên.
Một câu chuyện về hoạt động xã hội
Donal McLaughlin, 70 tuổi, đọc một bài báo trên tờ Washington Post và cảm thấy vừa tếu lại vừa hứng thú. Một con hươu cao cổ lớn tuổi tên Victor tại vườn bách thú Marwell, ở nam London, đã chết trong lúc giao cấu. Để nhớ đến Victor, McLaughlin quyết định lập một hội hầu khuyến khích người lớn tuổi năng động trong cuộc sống. Ông đặt tên cho tổ chức này là Hội Victor Bất bại, dựa theo tinh thần của bài thơ Bất bại (Invictus) hồi thế kỷ 19 của William Ernest Henley, trong đó có những câu như “Ta làm chủ định mệnh đời ta” và “Ta sẽ bất khả chinh phục”. Châm ngôn của hội là “không bao giờ bỏ cuộc”, và hội đã có đến hơn một ngàn hội viên trên toàn thế giới. Tất cả lệ phí hội viên đều được tặng cho vườn bách thú Marwell.
Thời điểm ấy là năm 1977. Kể từ đó, McLaughlin quyết sống theo phương châm của hội. Trong những năm 90 tuổi, ông lập Hội Nhím ở quê nhà tại Garrett Park, Maryland. Là một kiến trúc sư chuyên vẽ đề án (ông là người chỉ đạo nhóm thiết kế biểu tượng của Liên Hợp Quốc), ông đã sáng tác thẻ hội viên có hình một con nhím ương ngạnh trỏ vào một tấm biển ghi “Chớ giẫm lên tôi” và “Lông nhím mạnh hơn thanh gươm”. Ông đã lập ra hội này để bảo tồn “tinh thần của thành phố nhỏ này ở Hoa kỳ”.
Xúc động mạnh trước các cuộc tấn công ngày 11/9, ở tuổi 96, McLaughlin đã tham gia cuộc thi thiết kế đài tưởng niệm Trung tâm Thương mại Thế giới với một bản thiết kế cảnh quan tuyệt mỹ để tưởng nhớ các tòa tháp đôi. Ông đã hình dung một mặt biển tĩnh lặng đầy cỏ với một cặp sồi ở ngay vị trí của các tòa tháp lúc trước và những cây khác được trồng khắp xung quanh. Sau đây là phần mô tả của ông:
Lối đi bộ uốn cong để khách bộ hành du ngoạn khắp toàn bộ diện tích khu vực, vào ra có khoảng 30 lối cụt. Mỗi lối đều có không gian để tĩnh tâm hay suy tư trầm lặng trước những câu nói được khắc chạm, trích lời các bậc vĩ nhân trong lịch sử, cũng như trích từ các tôn giáo lớn trên thế giới.
Ngoài ra, ông đề xuất vinh danh từng nạn nhân bằng bảng đồng tưởng niệm đặt khắp mê cung này. Những người sống sót và thân nhân sẽ được trao hạt giống cùng loài với những cây được trồng ở đài tưởng niệm, và họ được khích lệ gieo trồng để tạo dựng một đài tưởng niệm sống về sự kiện 11/9.
Thiết kế của McLaughlin đã không được duyệt, nhưng điều đó hầu như chẳng làm ông nản lòng. Vào thời điểm tôi soạn sách này, ông vẫn năng nổ tham gia các phong trào và tổ chức, như phong trào tranh đấu để cải cách chương trình An sinh Xã hội. Gần đến sinh nhật thứ 98 của ông, người ta hỏi ông có lời khuyên gì để chia sẻ. Nhân vật “bảo tồn văn hóa” này đáp: “Hãy tìm cho mình một mục đích lớn và để lại dấu chân trên đường đời cho người sau noi bước”.
Nhận thức xã hội và bốn giai đoạn
Donal McLaughlin minh chứng cho thấy sự giao lưu xã hội và tích cực hoạt động ở những năm cuối đời quan trọng không kém ở những năm đầu đời. Trí thông minh xã hội thành thục là một trong những yếu tố của trí thông minh tiến hóa mà, như ta đã thấy, vẫn tiếp tục phát triển khi ta đi qua các giai đoạn đời về sau. Trong giai đoạn tái đánh giá ở tuổi trung niên, tư duy hậu hình thức khiến ta linh hoạt hơn về mặt giao lưu và cảm xúc, làm ta bớt phán xét gay gắt hoặc vội vàng, và có thể có thái độ khoan dung hơn đối với người khác. Trong giai đoạn khai phóng, cảm giác mới về sự tự do và thoải mái với bản thân có thể cho phép ta táo bạo hơn và cởi mở hơn trong giao lưu, dẫn đến khơi mào các quan hệ mới.
Các lực tác động trong giai đoạn đúc kết có thể thôi thúc ta giao lưu rộng lớn hơn, với quá khứ, và với vai trò mới của ta như một nguồn tư liệu lịch sử, kinh nghiệm chuyên môn và sự uyên bác. Quan hệ xã hội cũng đóng vai trò then chốt trong giai đoạn encore, mà trọng tâm là nhấn mạnh vào việc tăng cường tình cảm gắn bó trong gia đình và tìm kiếm các chủ đề mới cho cuộc sống.
Sự lựa chọn chín chắn với tuổi tác
Triết gia hiện sinh Albert Camus từng nhận xét: “Cuộc sống là tổng hòa tất cả những sự lựa chọn của ta”. Trong cuốn Harry Potter và Căn phòng bí mật của J. K. Rowling, thầy hiệu trưởng Albus Dumbledore của trường Hogwarts (một trong những nhân vật tuổi già tích cực được đặc tả độc đáo nhất trong văn học thiếu nhi hiện đại) đã khuyên cậu bé Harry: “Chính những sự lựa chọn mới tiết lộ con người đích thực của ta, hơn nhiều so với năng lực của ta”. Trí thông minh xã hội trưởng thành giúp ta có những sự lựa chọn phù hợp hơn trong mọi lĩnh vực cuộc sống, nhất là trong đời sống xã hội.
Với tuổi tác, ta thường khéo phân biệt hơn trong các mối quan hệ. Nghiên cứu cho thấy những người lớn tuổi sẵn sàng hơn trong việc cắt đứt các mối quan hệ hời hợt hoặc không đáng để dành thời gian cho những người mà họ quan tâm và cảm thấy dễ chịu khi ở bên cạnh, và có thể thoải mái bày tỏ con người thật của họ. Một phụ nữ 70 tuổi đã bảo tôi, “Cuộc sống quá ngắn ngủi để tôi phải chịu đựng những người mình không cảm thấy vui khi gặp”.
Trí thông minh xã hội cũng giúp cải thiện kỹ năng giải quyết xung đột. Nghiên cứu cho thấy người lớn tuổi biết phối hợp các chiến lược xử trí và thương thuyết nên kiểm soát sự bốc đồng tốt hơn, và thường đánh giá chính xác hơn các tình huống ẩn chứa xung đột, cho nên họ sẽ hành động hiệu quả hơn, thỏa đáng hơn. Đây là một lý do khiến tuổi tác là vốn quý trong nhiều ngành nghề liên quan đến con người như quản lý, tòa án, chính trị và ngoại giao.
Tôi thấy xu hướng này ở nhiều đối tượng từng tham gia các nghiên cứu của tôi về lão hóa. Abby Stern, một trong số họ, đã kể với tôi rằng khi còn làm việc toàn thời gian, bà chưa bao giờ có thời gian hay sức lực để xử trí đúng mực các xung đột cá nhân. Áp lực của thời hạn trong công việc biên tập tạp chí khiến bà khó giải quyết các vấn đề phát sinh, để rồi cảm xúc bị dồn nén dẫn đến bùng nổ về sau. Giờ đây, ở tuổi 62, và chỉ làm việc bán thời gian, bà có thể chú tâm vào xung đột khi nó phát sinh và ngăn chặn những chuyện bực mình nhỏ biến thành sự thù nghịch lớn. Bà cũng khéo léo hơn trong lời nói và hành động, trầm tĩnh hơn trong phản ứng khi cảm xúc trỗi dậy và thường có tầm nhìn dài hạn hơn.
“Càng lớn tuổi, giọng điệu của tôi càng ít gay gắt hơn”, bà cho biết.
Giới tính và vai trò xã hội
Một số nhà nghiên cứu, trong đó có David Gutmann thuộc Đại học Northwestern, đã phát hiện thấy rằng theo tuổi tác, nam giới quan tâm nhiều hơn đến quan hệ xã hội, trong khi phụ nữ, vốn thường chú trọng giao lưu trong phạm vi gia đình và bạn bè, lại có xu hướng mở rộng phạm vi quan hệ xã hội ra toàn thế giới và quan tâm đến các vấn đề công bằng xã hội nói chung. Gutmann mô tả nam giới dồn xung năng của thời trai trẻ vào việc giải quyết vấn đề và gìn giữ hòa bình. Ngược lại, ông thấy phụ nữ chuyển sang có hành vi quyết đoán hơn đồng thời kiểm soát nhiều hơn các hoàn cảnh xã hội. Các nhà nghiên cứu khác cũng thấy tương tự, chẳng hạn như nam giới ngày càng ưa chiêm nghiệm cảm xúc nội tâm và cởi mở hơn với các mối quan hệ, và phụ nữ, thoát khỏi trách nhiệm chăm sóc con cái, ngày càng chú trọng vào các vai trò xã hội rộng mở hơn. Các nhà nghiên cứu lưu ý rằng cả hai xu hướng này đều giúp tăng cường sức khỏe tổng thể và lòng tự tôn.
Thật quá đơn giản nếu nói rằng nam và nữ tráo đổi vai trò cho nhau khi lớn tuổi; thực tế luôn phức tạp hơn. Các vai trò giới tính không còn khác biệt quá sâu sắc. Những thay đổi ở tuổi trung niên và về sau đã dẫn đến sự mở rộng và cân bằng các vai trò mà trong nhiều thập kỷ đã được định hình bởi sự kỳ vọng vượt bậc của xã hội. Đây là tác động của trí thông minh xã hội (và, rộng hơn, trí thông minh tiến hóa). Nam giới có thể trở nên viên mãn hơn và cân bằng hơn về cảm xúc bằng cách cởi mở với giá trị của các mạng quan hệ xã hội. Nữ giới thì có thêm thời gian và sức lực để có một cái nhìn rộng hơn hầu trở nên tích cực và quyết đoán hơn trong các vấn đề xã hội.
Sau đây là một câu chuyện về sự phát triển quan hệ của một người ở tuổi trung niên để minh chứng cho những đổi thay về mặt xã hội và liên quan đến giới tính.
Dạy hóa bậc trung học là niềm đam mê lớn suốt 40 năm trời của David Conway. Ông soạn bài vào buổi tối, chấm bài vào cuối tuần, và hầu như năm nào cũng dạy hè. Mặc dù được đồng nghiệp và học sinh nể trọng bởi sự tận tụy, ông gặp phải vướng mắc lớn trong quan hệ với vợ, vốn cảm thấy lúc nào ông cũng đặt công việc lên trên vợ con.
Năm David 61 tuổi, vị hiệu trưởng mới nhậm chức bắt đầu chất vấn cách dạy của ông. Những trận xung đột liên tục khiến David tính chuyện nghỉ hưu, bất chấp lòng yêu nghề và nhu cầu chu cấp cho các con, vốn đang theo học đại học. Ông tìm đến tôi để trị liệu tâm lý vì tình cảnh đã đẩy ông đến chỗ nóng nảy và suy nhược. Ông ghét sự căng thẳng và áp lực ở trường, nhưng lại hết sức lo âu về việc nghỉ hưu. Một mối quan ngại nữa là hai vợ chồng ông sẽ chung đụng ra sao nếu ông cứ ở nhà suốt. Mối quan hệ của hai vợ chồng đã nguội lạnh, do nhiều năm nung nấu sự bực bội, và David e rằng thay cho mối xung đột với hiệu trưởng, có khi giờ đây ông lại rước lấy xung đột với vợ mình.
Tuy nhiên, ông thừa nhận rằng việc nghỉ hưu cũng có một số mặt hấp dẫn.
“Tôi đã tâm sự với các con trai về việc này khi chúng về nhà nghỉ xuân và chúng bảo rằng tôi cần thay đổi từ lâu”. ông kể. “Chúng bảo tôi chớ lo về việc học của chúng và nên bắt đầu bằng cách thanh lý tủ quần áo phát chán của tôi để chuẩn bị sẵn sàng cho một cuộc sống mới. Mấy cha con đã tâm sự với nhau đầm ấm hơn bao hết. Thú thực tôi có phần phấn khích với ý tưởng này, nhưng không hình dung được cuộc sống mới sẽ ra sao”.
Trong những cuộc đối thoại sau đó, tôi đã giúp ông tìm kiếm một hướng đi đáp ứng được những nguyện vọng dường như không tương hợp của ông. Ví dụ, mặc dù quan ngại về mối quan hệ với vợ, ông lại là người cởi mở đón nhận những ý tưởng mới để cải thiện quan hệ giữa họ. Khi tôi hỏi hai vợ chồng ông cùng thích làm điều gì, ông đáp, “đi ăn ngoài”.
“Bà ấy là người sành ăn và thích thử các nhà hàng mới”, ông tâm sự. “Bà ấy rất thích làm người bình luận về nhà hàng cho các tờ báo địa phương”.
“Ông có nấu ăn ở nhà không?”, Tôi hỏi. “Không”.
“Vậy... tại sao không thử?”, tôi hỏi. “Sẽ rất thú vị nếu hai vợ chồng tìm được một việc gì mới để cùng làm – điều đó sẽ tái nạp năng lượng cho mối quan hệ. Vả lại, chẳng phải lâu nay ông toàn làm việc với công thức hóa học hay sao? Sao không trổ tài với các công thức trong bếp? Bà ấy sẽ thấy ông quan tâm đến sở thích lớn của bà ấy. Sao ông không thử rủ bà ấy? Cùng lắm thì bà ấy từ chối thôi chứ có gì đâu”.
Tuần sau đó ông kể lại rằng bà vợ sốc khi ông đưa ra ý tưởng ấy, nhưng bà đã đồng ý thử.
David cũng bắt đầu thấy rằng ông không cần phải hoàn toàn nghỉ dạy môn hóa. Ông có thể dạy thế hoặc giảng lớp phụ đạo. Nếu vậy, ông vẫn có thể theo nghề, chuyển dần sang chế độ hưu trí, kiếm được ít tiền và từng bước lập kế hoạch cho giai đoạn tiếp theo trong đời mình.
Khi đệ đơn nghỉ hưu, David cho biết ông cảm thấy được khai phóng. Ông đã tự mở ra một giai đoạn mới trong hôn nhân bằng cách khám phá một vai trò mới, và cũng tìm được cách để duy trì niềm đam mê giảng dạy. Trí thông minh xã hội chín chắn của David đã khiến ông xét lại vai trò và các mối quan hệ của mình để vạch ra một cuộc sống có chất lượng hơn cho bản thân. Ở đây ta có thể thấy tác động của Động lực Nội tâm. Tôi ngờ rằng David sẽ khó thay đổi đáng kể nếp sống lâu năm như vậy nếu không cảm nhận được sự thôi thúc phải hành động. Thái độ bất mãn trong cuộc sống đã mang lại những cảm xúc mới và ước muốn thử nghiệm sự khác biệt – từ phục trang mới, việc nấu ăn cho đến lối sống mới. Quá trình trị liệu đã tác động, nhưng sự khai mở này được tạo ra bởi động lực phát triển – yếu tố làm chuyển biến đời sống xã hội của ông.
Danh mục quan hệ xã hội
Từ quá trình nghiên cứu người cao niên khỏe mạnh trong vài thập kỷ qua, chúng ta biết rằng sức khỏe tâm thần và thể chất liên quan chặt chẽ đến sự tham gia xã hội; và sự thoát ly và tách biệt khỏi xã hội là dấu hiệu của chứng trầm cảm hoặc một số bệnh khác. Tất nhiên, hiểu biết tầm quan trọng của quan hệ xã hội là một chuyện, có khả năng vun đắp và duy trì các quan hệ đó là chuyện khác. Việc kết giao với bạn mới và duy trì tình bạn cũ có thể gặp khó khăn vì ta thiếu phương tiện đi lại, sa sút thính lực hoặc thị lực, hoặc không đủ sức theo đuổi các môn thể thao hoặc các hoạt động mà trước đó từng quy tụ mọi người.
Qua nhiều năm, tôi đã đề ra một số hướng để khắc phục những rào cản ấy. Về cơ bản, chúng hàm chứa lời khuyên tương tự điều mà Samuel Johnson đã viết trong một bức thư gửi cho người bạn Boswell của mình năm 1779, ở tuổi 70: “Nếu nhàn rỗi, chớ đơn độc; nếu đơn độc, chớ nhàn rỗi”. Đây là trí thông minh xã hội thực tiễn!
Phương hướng mà tôi đề ra, và tôi gọi là danh mục quan hệ xã hội, đã áp dụng lời khuyên này cho thế kỷ 21, kết hợp các kết quả nghiên cứu mới nhất về lý thuyết hoạt động và sự kích thích não bộ. Ý tưởng của tôi tương tự như trong tư vấn tài chính: không cất tất cả trứng vào một giỏ. Hãy đa dạng hóa danh mục để sự suy giảm ở mặt này sẽ được bù lại bằng sự gia tăng ở mặt khác. Người lớn tuổi cần áp dụng một danh mục quan hệ xã hội cân bằng dựa trên các hoạt động lành mạnh, sự thách đố về trí óc và các mối quan hệ cá nhân mà họ có thể mang theo vào tuổi cao niên. Tôi đề nghị bốn danh mục, mà mỗi danh mục được biểu thị trong một góc tứ phân sau đây. Kèm theo là ví dụ về các hoạt động trong mỗi góc tứ phân, nhưng chỉ là ví dụ mà thôi – thực tế, có vô số cách để điền vào các ô này!
Ý tưởng chính của danh mục quan hệ xã hội này là nhằm giúp ta tham gia cân bằng vào các hoạt động đơn lẻ lẫn theo nhóm, và vào các hoạt động cần sức lực và vận động nhiều, như thể thao, khiêu vũ, và du lịch, cũng như các hoạt động cần sức lực và vận động ít, như viết lách, đọc sách, hoặc nghe nhạc. Do vậy bốn loại hình đã được ấn định với tầm quan trọng như nhau: nhóm/vận động nhiều, nhóm/vận động ít, cá nhân/vận động nhiều, và cá nhân/vận động ít. Bạn có thể dễ dàng tự soạn biểu đồ cho mình và điền vào 4 khung các hoạt động mà mình đang theo đuổi. Danh mục này có thể giúp bạn thấy liệu phạm vi hoạt động xã hội của mình có bị lệch – chẳng hạn, liệu bạn có cần phải bổ sung các hoạt động cần sức lực/vận động nhiều hay liệu các hoạt động của bạn có lệch quá nhiều theo hướng đơn lẻ.
DANH MỤC QUAN HỆ XÃ HỘI | ||
HOẠT ĐỘNG NHÓM | HOẠT ĐỘNG CÁ NHÂN | |
NHÓM/VẬN ĐỘNG NHIỀU | CÁ NHÂN/VẬN ĐỘNG NHIỀU | |
VẬN ĐỘNG NHIỀU | • Tham gia một nhóm khiêu vũ hoặc kịch nghệ thường kỳ | • Lập một khu vườn kiểu mẫu trong khu phố |
TỐN SỨC NHIỀU |
• Đi du lịch cùng một nhóm học tập cao niên | • Mở một tour bộ hành có thuyết minh trong thành phố |
• Tham gia một nhóm hoạt động cộng đồng | • Chụp ảnh tư liệu hoặc thiên nhiên | |
NHÓM/VẬN ĐỘNG ÍT | CÁ NHÂN/VẬN ĐỘNG ÍT | |
VẬN ĐỘNG ÍT | • Lập một nhóm thưởng thức văn nghệ hài/ăn tối định kỳ | • Soạn bí quyết công thức nấu ăn của gia đình |
TỐN SỨC ÍT |
• Ra báo trong gia đình với các con/cháu | • Soạn gia phả với chú thích bằng dữ liệu động |
• Tổ chức một câu lạc bộ sách hoặc cờ tại nhà | • Soạn những bức thư email gửi cho các cháu |
Tăng cường sự tinh thông cá nhân & phát triển quan hệ giao lưu
Cân bằng giữa các mối quan hệ ngắn hạn và dài lâu
Khái niệm danh mục quan hệ xã hội cũng tương tự như danh mục đầu tư tài chính ở ba khía cạnh:
• Phải đa dạng và cân bằng để “hiệu quả” của danh mục tổng thể được ổn định và linh hoạt khi gặp sự xáo trộn.
• Phải bảo đảm được trong trường hợp lão suy hoặc mất mát. Nếu sức khỏe sa sút, ta cần có những sở thích không đòi hỏi tốn sức nhiều hay vận động nhiều. Tương tự, nếu mất đi người bạn đời hoặc thân hữu, ta cần dựa vào các hoạt động đơn thân trong quá trình chuyển tiếp trước khi có các mối quan hệ mới.
• Như với tài chính, danh mục quan hệ xã hội sẽ phát huy tốt nhất nếu ta bắt đầu tạo dựng nguồn vốn sớm trong đời. Nhưng chẳng bao giờ quá muộn để bắt đầu. Vì vậy, nếu thích viết lách, ta hãy bắt đầu bằng cách dự một khóa học, và khi hưu trí hoặc bán hưu trí, khi có nhiều thời gian hơn, hãy bắt tay viết cuốn tiểu thuyết ấp ủ hoặc góp bài cho báo chí địa phương. Hệt như tài sản, các mối quan hệ cần thời gian để gây dựng và sự đầu tư liên tục để phát triển trọn vẹn. Duy trì tình đồng môn ở đại học thì tốt, nhưng ta nên tiếp tục kết giao với bằng hữu mới suốt đời.
Sau đây là một câu chuyện vắn tắt cho thấy chẳng bao giờ là quá muộn để dẹp bỏ những quan hệ cũ và tạo dựng các quan hệ mới thiết thân đối với sức khỏe. Câu chuyện này kể về một người đàn ông giàu có nhưng khá xấu tính sống ở London. Vào giữa những năm 1800, doanh nhân này nổi tiếng nhưng không được quý mến. Một đoạn miêu tả ông ta lúc bấy giờ đã viết như sau: “Sự giá lạnh trong tâm hồn làm tê cứng đường nét già nua của lão, làm cóng chiếc mũi nhọn của lão, làm nhăn nheo đôi má, làm cứng đờ dáng đi, làm đôi mắt đỏ bầm, làm đôi môi mỏng của lão tím tái và hé ra giọng nói sắc lạnh đến gai người”. Cảm xúc của người này đã biến mất sau nhiều thập kỷ, đến độ chẳng ai còn nhớ lão từng là một người vui tươi. Thật ra, người này đã bị chứng trầm cảm mãn tính mà không được chẩn đoán, khiến bản tính thật bị lu mờ và trí thông minh xã hội bị chôn lấp lâu ngày.
May mắn thay, ông già này đã được viếng thăm bởi một nhóm chăm sóc liên ngành – hơn một thế kỷ trước thời đại mà ta được chăm sóc sức khỏe tâm thần ngày nay. Nhóm này vận dụng tâm lý trị liệu dựa vào giấc mơ để giúp người này hiểu được tình trạng của mình – hơn 50 năm trước khi tác phẩm Minh giải giấc mơ (The Interpretation of Dreams) của Freud ra đời. Họ cũng dùng một hình thức ôn lại cuộc đời như giai đoạn đúc kết để khai thác các động lực đang say ngủ bên trong nhằm giải quyết xung đột và khai mở năng lực mới. Nỗ lực của nhóm đã được đền đáp một cách hết sức nhanh chóng. Lão già đã thức tỉnh với tiềm năng của bản thân, chuyển biến mạnh mẽ và có được sức sống mang lại sự đổi đời cho chính mình cũng như cho những người xung quanh.
Người được chuyển hóa này chẳng phải ai khác ngoài Ebenezer Scrooge, nhân vật gắt gỏng lừng danh trong Khúc ca Giáng sinh (A Christmas Carol) của Charles Dickens, sáng tác năm 1843. Nhóm nghiên cứu liên ngành này là những hồn ma của Giáng sinh trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Mặc dù là một tác phẩm hư cấu, câu chuyện cho thấy tiềm năng thực sự để thay đổi ở độ tuổi cao niên, cho ta một ví dụ đầy giá trị sau hơn 100 năm. Dù đường đời có muộn màng đến đâu, dù hoàn cảnh nghiệt ngã thế nào, khi kiến thức, kinh nghiệm và ý chí phát triển của ta cùng hợp lực, cuộc sống có thể chuyển biến.
Sau đây là hai câu chuyện (lần này có thật!) minh họa tiến trình của trí thông minh xã hội theo tuổi tác.
Câu chuyện của Arnold
Ở tuổi 66, Arnold Rahn bị buộc phải nghỉ hưu, rời khỏi vị trí quản lý một cửa hàng dụng cụ thể thao. Arnold chưa sẵn sàng về hưu và đã cố tìm công việc ở một cửa hàng khác. Nhưng ông ngày càng khó chịu vì cứ liên tục được đề nghị những vị trí hưởng mức lương thấp. Ông từ chối tất cả.
Arnold vốn là một người trầm lặng, dễ tính, nhưng giờ đây, trong tâm trạng thất vọng và cáu kỉnh, ông bắt đầu sinh tật khuyên răn hai người con trai và chỉ trích cách họ nuôi dạy con cái. Ông cũng bắt đầu uống nhiều hơn, khiến các con ngày càng ái ngại khi lũ cháu nội ở gần. Arnold đã phản ứng bất lợi và đánh mất sự tự chủ cũng như lòng tự trọng. Cách hành xử kém thích ứng của ông đã khiến gia đình xa lánh.
Gia đình Arnold đã họp lại để nghĩ cách. Nhưng Arnold cực lực phản đối việc tìm kiếm sự giúp đỡ bên ngoài và gạt hết những lời gợi ý tham gia các hoạt động không liên quan đến công việc trước đây.
“Tôi không cần sự giúp đỡ”, ông thường nói. “Tôi chỉ cần quay trở lại với công việc”.
Lúc tôi can dự vào trong vai trò một nhà tâm lý trị liệu, gia đình ông đang rất bực bội và Arnold cũng khổ sở. Sau khi lắng nghe mọi khía cạnh của tình hình, tôi chợt thấy Arnold có thể thích dạy về kinh doanh hoặc quản trị ở trình độ cao đẳng cộng đồng. Các con trai của ông thì hoài nghi. Họ nghĩ rằng Arnold sẽ gạt ngang chuyện đó; họ cũng lo rằng nếu ông nộp đơn xin dự tuyển vào một vị trí như thế và bị từ chối, tình hình sẽ càng tồi tệ hơn. Tôi đề nghị “thăm dò” bằng một số chương trình mà tôi biết trước đây. Tôi tìm được một giảng viên sẵn lòng mời Arnold đến giảng trong lớp của mình để sinh viên có thể học hỏi từ kinh nghiệm kinh doanh thực tế của Arnold, và sau một chút thuyết phục, Arnold đã đồng ý dạy thử.
Bài giảng của ông thành công lớn, và ông đã được mời giảng nhiều lần. Hóa ra sự trải nghiệm xã hội cao độ bằng giảng dạy chính là điều mà Arnold cần. Tâm trạng và thái độ của ông khá lên, mà từ đó cũng giúp cải thiện quan hệ của ông với gia đình. Trí thông minh xã hội bẩm sinh của Arnold đã bị kiềm tỏa bởi cảm xúc tiêu cực của cuộc về hưu miễn cưỡng. May mắn thay, đà tuột dốc xoắn ốc của ông đã được chặn lại trước khi gây tổn hại nặng nề cho các mối quan hệ cá nhân. Ông đã nắm bắt cơ hội để khai thác tối đa vốn chuyên môn và kỹ năng xã hội của mình trong một môi trường mới.
Câu chuyện của Agnes
Agnes Rafferty là chị cả trong bảy chị em. Khi mẹ mất sớm vì viêm phổi, Agnes đã gánh vác nhiều trách nhiệm thay mẹ, giúp cha nuôi nấng các em. Dù phải cáng đáng gia đình, Agnes vẫn học xong trung học. Sau khi hoãn việc học đại học suốt nhiều năm để tiếp tục đỡ đần cho cha, rốt cục Agnes cũng đã hoàn tất đại học và tiếp tục lấy bằng thạc sĩ về văn chương Anh. Giống như mẹ, Agnes đã trở thành một giáo viên.
Bà dạy văn chương Anh một cách tinh tế và cuốn hút, và giành được nhiều giải thưởng Giáo viên Xuất sắc nhất trong suốt nhiều năm giảng dạy. Nhưng đời tư của bà lại gặp trắc trở. Chồng của bà, sau khi có với nhau hai mặt con, đã qua đời vì một cơn đau tim khi các con còn nhỏ và, một lần nữa, để lại cho bà hai trọng trách trên vai. Lại một lần nữa, quyết tâm mãnh liệt và tinh thần tự lập của bà lại trỗi dậy và bà tiếp tục vừa dạy học vừa nuôi con.
Đến thời điểm phải nghỉ hưu ở tuổi 65, các con của Agnes đã tốt nghiệp đại học, lập gia đình và dọn về California. Bà đã ổn định về cuộc sống, mặc dù hầu như chưa sẵn sàng nghỉ ngơi.
“Chẳng phải vì năm nay tôi 65 và đã đến lúc nghỉ dạy mà mọi việc phải dừng lại”, bà nói.
Được động viên bởi hai cựu học sinh mà hiện là thủ thư ở trong vùng, Agnes đã phát động một chuỗi các cuộc đọc sách và mạn đàm văn học. Chương trình “Buổi chiều với Agnes: Hành trình vào văn chương thế kỷ 21” đã dọn đường cho Agnes làm công việc yêu thích: đọc các tác phẩm theo lối hóa thân nhân vật đầy ấn tượng của một nữ diễn viên sân khấu.
Thế rồi, giữa độ tuổi 70, Agnes bị đột quỵ. Giọng nói sinh động và lưu loát của bà trở nên lịu nhịu, và bà phải dùng khung tập đi. Các con giục bà dọn về ở gần, nhưng Agnes từ chối; bà cảm thấy đã bắt rễ với thành phố nhỏ này và gắn bó với các quan hệ xã hội đã có. Bà cố gắng sống tự lập mặc dù rõ ràng gặp vất vả. Bà đã dừng các chương trình văn chương vì không thích vừa đọc vừa ngồi và ái ngại với chất giọng không còn lưu loát. Bà bắt đầu thoát ly khỏi cuộc sống. Bà không còn thèm ăn và cân nặng cũng giảm sút.
Khi gia đình bà nhờ tôi can thiệp, tôi nhìn thấy ở bà ánh lửa cuộc sống vẫn lập lòe trong cơn trầm cảm. Căn hộ của bà đầy ắp sách, và khi tôi nhìn lướt qua, bà đã hỏi đâu là cuốn sách tôi yêu thích hồi thời trung học. Tôi đáp “Ông già và biển cả” của Hemingway. Bà bảo rằng cuốn đó lúc nào cũng là một trong những cuốn bà yêu thích nhất. Và bà kể thêm rằng giờ đây bà cảm thấy như con quái vật biển khổng lồ ấy đang ở trên lưng và trong miệng của bà.
“Bà có cách dùng từ hay lắm”, tôi nói. “Bà đã viết nhiều chưa?”.
“Tôi nói giỏi hơn viết”, bà đáp. “Tôi đam mê văn chương và giờ đây am tường rất nhiều so với hồi mới đi dạy”, bà tiếp lời. “Tôi thích chia sẻ văn chương với mọi người, nhưng giờ đây không thể tiếp tục nữa”.
Tôi thấy bà đang bị kẹt trong dòng xoáy những ý nghĩ tiêu cực và đang bị xói mòn động lực trong khi muốn thử nghiệm cái mới. Hôm đó ra về tôi chợt nảy ra một ý tưởng. Tôi liên lạc với cán bộ thư viện và đề xuất ý tưởng lập bản tin hằng tuần cho Agnes với tên gọi đại loại như “Hướng dẫn của Agnes – Hành trình vào văn chương thế kỷ 21”. Mỗi tờ rơi sẽ giới thiệu một tác phẩm văn học của thế kỷ 20 và nêu bình luận của bà về nét đặc biệt hoặc hấp dẫn của tác phẩm đó cùng với một trích đoạn ngắn.
Các cán bộ thư viện cũng thích ý tưởng này và đề xuất với Agnes. Để giúp bà vượt qua nỗi bất an về khả năng viết lách, tôi gợi ý cho bà rằng, do bà rất giỏi thuyết trình, bà nên tự ghi âm lại và dùng nội dung ấy để soạn tờ rơi. Bà đã đồng ý thử.
“Hướng dẫn của Agnes” nhanh chóng trở thành một nội dung thường kỳ không thể thiếu của hệ thống thư viện. Mặc dù không còn xuất hiện trước đông người, Agnes vẫn trao đổi qua điện thoại và thư từ với độc giả. Bà bắt đầu kết nối trở lại hoạt động giao lưu xã hội và nhanh chóng lấy lại bản sắc sinh động, tự chủ cũng như khí thế cho bản thân.
Tóm tắt
Trí thông minh xã hội, trí nhớ và sự uyên bác là những thành quả gắn kết mật thiết mà chỉ có tuổi tác mới gặt hái được. Não bộ cao niên có tiềm năng lớn lao hơn những gì hầu hết chúng ta vẫn tưởng, và phát triển không ngừng. Năng lực giao lưu và quan hệ cá nhân của ta không hề suy suyển ở tuổi cao niên và là một suối nguồn hệ trọng đối với sức khỏe thể chất lẫn tinh thần. Hai chương cuối sẽ nêu những khía cạnh tích cực này của tuổi cao niên và vận dụng chúng vào hai địa hạt quan trọng thiết yếu: quá trình nghỉ hưu và sự sáng tạo. Cũng như mọi khía cạnh khác của tuổi tác, hai địa hạt này đầy rẫy những sự ngộ nhận, hiểu lầm và kỳ vọng tiêu cực không chính đáng.