TÍNH SÁNG TẠO VÀ TUỔI TÁC
Tính sáng tạo thể hiện một sự hội tụ mầu nhiệm của năng lượng bay bổng bên trong trẻ nhỏ với đối cực kiêm kẻ kình địch của nó:
Cảm quan về trật tự được áp đặt bởi trí thông minh theo khuôn phép của người lớn.
• Norman Podhoretz
Ngày 21/2/1983, truyền hình đã có lượng khán giả đông kỷ lục từng được ghi nhận theo dõi cùng lúc tập cuối của M*A*S*H, loạt phim dài về một đơn vị phẫu thuật quân y thời chiến tranh Triều Tiên. Alan Alda, ngôi sao của bộ phim, đã biên kịch hoặc đạo diễn nhiều tập trong phim. Với bộ phim này, ông đã đoạt giải Emmy về diễn xuất, kịch bản và đạo diễn – người duy nhất từng đạt thành tích như vậy.
Khi tập cuối được phát sóng, Alan 47 tuổi và có thể dễ dàng nghỉ hưu. Thế nhưng, ông lại dấn bước theo những hướng mới, có một thời gian làm việc với Woody Allen và nhận các vai nghịch với “loại” ông đã định hình trong M*A*S*H. Một số bộ phim thất bại về doanh thu, và giới phê bình đôi khi bình luận gay gắt về tài diễn xuất hoặc đạo diễn của ông. Tuy nhiên, ông vẫn không lùi bước, đôi khi tham gia chỉ vì bị cuốn hút bởi chủ đề, chẳng hạn như khi dẫn chương trình cho loạt phim khoa học của PBS mang tên Scientific American Frontiers (Biên giới khoa học Hoa Kỳ).
Khi cuốn sách này đang in, Alda 70 tuổi – và vẫn đang tiếp tục dấn bước trên con đường sáng tạo. Năm 2004, ông được đề cử Oscar cho vai diễn Thượng nghị sĩ Brewster trong The Aviator (Phi công tỉ phú), và năm 2005 ông được đề cử giải Tony về diễn xuất trong vở kịch Broadway mang tên Glengarry Glen Ross của David Mamet. Nói về diễn xuất trong kịch của Mamet, Alda cho thấy ông vẫn giữ được lợi thế riêng về tính sáng tạo ra sao.
“Sự xuất thần lẩn quất trong thoại của Mamet”, ông nói trong một cuộc phỏng vấn gần đây trên tờ New Yorker. “Không ai có thể nhập cuộc và chỉ diễn phần của mình. Cũng giống như đoàn nhạc thính phòng mỗi đêm sẽ trình diễn hoàn toàn khác biệt, vở kịch cũng được diễn với hương sắc mỗi lần mỗi khác. Thật thú vị khi vừa xoay sở trong khuôn khổ chuyên môn lại vừa khám phá cả một thế giới khác biệt”.
Trong khi hầu hết chúng ta chấp nhận rằng sự uyên bác có xuất phát điểm từ tuổi tác, nhiều người lại có quan điểm ngược lại về sự sáng tạo: Họ tin rằng nó là hoa trái của tuổi trẻ và theo thời gian sẽ ngày càng nảy nở ít hơn. Đây chính là một ngộ nhận nữa về tuổi tác, vốn vẫn tồn tại dai dẳng bất chấp chứng cứ trái ngược. Thật vậy, sự sáng tạo là một tiềm năng xứng hợp với mọi lứa tuổi, và, như lời Norman Podhoretz ở đầu chương này, nó có thể trở nên sâu sắc hơn và phong phú hơn theo tuổi tác.
Cuốn sách trước của tôi, The Creative Age: Awakening Human Potential in the Second Half of Life (Thời sáng tạo: Đánh thức tiềm năng sáng tạo ở nửa đời sau), đã ghi lại mức độ sâu rộng của tiềm năng sáng tạo và biểu đạt ở nửa sau cuộc đời. Và trong cuốn sách này, ta đã thấy nhiều ví dụ về tính sáng tạo ở người lớn tuổi, từ giải pháp giao bánh pizza đầy mưu trí khi bố vợ tôi mắc kẹt trong bão tuyết cho đến những ý tưởng đặc sắc để tưởng niệm ngày 11/9 của Donal McLaughlin, đến sách công thức nấu ăn “Trăm năm đầu tiên” của lão bà Anna Franklin trăm tuổi.
Sự biểu đạt sáng tạo ở nửa đời sau được khơi dậy bởi động lực và ước muốn của Động lực Nội tâm. Khi dùng từ “sáng tạo”, tôi không ngụ ý đơn thuần những năng khiếu như viết văn, vẽ tranh, điêu khắc hoặc sáng tác âm nhạc. Tôi nghĩ rằng tất cả chúng ta đều có sự sáng tạo theo cách của riêng mình, dù ta là họa sĩ, công nhân dây chuyền lắp ráp, nghệ sĩ piano hoặc thợ sửa ống nước. Tính sáng tạo có thể xuất hiện ở bất kỳ lĩnh vực nào, từ các lĩnh vực trừu tượng nhất của khoa học đến các địa hạt về quan hệ con người. Vấn đề là, sáng tạo là hiện thực hóa cái mới – và cái mới có mặt khắp nơi. Ta có thể định nghĩa tính sáng tạo theo nhiều cách, tất nhiên. Nhà tâm lý học Howard Gardner, thuộc Đại học Harvard, phân biệt “tiểu” sáng tạo và “đại” sáng tạo. “Đại” sáng tạo nói đến cho các thành tựu phi thường của các nghệ sĩ, khoa học gia và các nhà phát minh đại tài. Những hình thức sự sáng tạo này thường làm thay đổi tư tưởng và hành trình tiến hóa, như lý thuyết tương đối của Einstein, chủ nghĩa lập thể của Picasso và các phát minh về điện của Edison.
“Tiểu” sáng tạo gắn với các hoạt động và công việc đa dạng hằng ngày. “Mỗi người đều có một số lĩnh vực mà bản thân quan tâm đặc biệt”, Gardner giải thích. “Đó có thể là một khía cạnh trong công việc của họ – cách họ ghi chép để nhớ hoặc thao tác khéo léo của họ trong xưởng máy – hoặc cách người ta giảng bài hoặc bán hàng. Sau một quá trình làm việc, người ta có thể trở nên khá điêu luyện – không thua kém bất cứ ai mà họ biết trong những người xung quanh họ”.
Một địa hạt chung cho “tiểu” sáng tạo là làm vườn. Denise Driscoll, 68 tuổi, từng tham gia trong nghiên cứu hưu niên của tôi, là người tự hào về những khám phá hạt giống lạ trong danh mục thực vật hiếm. Bà thường trồng những giống lạ này trong các khu vườn quanh nhà và liên tục điều chỉnh để tạo hiệu ứng thị giác.
Đôi khi một nỗ lực “tiểu” sáng tạo có thể biến thành “đại” sáng tạo. Ví dụ, Maria Anne Smith, sống ở Úc vào thế kỷ 19, là một người trồng cây ăn quả đáng nể. Giống Denise Driscoll, Maria Smith thích tìm giống lạ để trồng theo cách mới. Một ngày nọ, khi đã 69 tuổi, bà phát hiện ra một cây giống mọc từ một đống táo tây dại gốc Pháp đã bị bỏ xó. Trông nó có vẻ khác nên bà đã ghép và dưỡng nó. Cây này hóa ra là một đột biến tự nhiên – tức “biến dị” – và, trong trường hợp này, có một số tính năng hấp dẫn. Qua nhiều năm, Smith đã dùng nhánh chiết của cây để gia tăng sản lượng của mình và bán cây giống cho mọi người. Quả của cây ấy giờ đây đã nổi tiếng trên thế giới: táo Granny Smith.
Bản thân tôi cũng có một góc nhìn riêng về tính sáng tạo, qua một giấc mơ. Tôi luôn bị mê hoặc bởi thiên tài sáng tạo Albert Einstein và phương trình thần kỳ của ông mô tả tương quan giữa năng lượng (e) và vật chất (m): e = mc2 (c biểu thị cho tốc độ của ánh sáng). Trong giấc mơ của tôi, phương trình này tự sắp xếp lại thành một phương trình về tính sáng tạo: c = me2. Trong trường hợp này, c viết tắt cho tính sáng tạo (creativity), m viết tắt cho khối lượng kiến thức của một người (mass), và e viết tắt cho kinh nghiệm (experience). Phương trình phát biểu rằng tính sáng tạo của ta bằng khối lượng kiến thức nhân với hiệu ứng từ kinh nghiệm của ta, mà phải được xét ở hai chiều kích cụ thể, bên trong (tâm lý và tình cảm) và bên ngoài (kinh nghiệm sống đã tích lũy, sự hiểu biết và quan kiến). Phương trình thú vị này cho thấy tính sáng tạo là một hàm số của cả kiến thức và kinh nghiệm, mà cả hai đều tăng tiến theo tuổi tác.
Các loại tính sáng tạo khác biệt theo tuổi tác
Tôi đã phát hiện rằng tính sáng tạo ở nửa đời về sau diễn ra theo 3 mô thức cơ bản:
• Khởi sự sáng tạo
• Tiếp tục hoặc chuyển đổi tính sáng tạo
• Sáng tạo từ sự tổn thất
Khởi sự sáng tạo
Một số người lần đầu chạm vào tiềm năng sáng tạo của bản thân ở độ tuổi khoảng 65. Tôi có ý niệm về những “hoa nở muộn” này sau một lần viếng thăm cuộc triển lãm hoài niệm về nửa thế kỷ nghệ thuật dân gian tại Nhà trưng bày Nghệ thuật Corcoran ở Washington. Các tác phẩm của 20 nghệ sĩ dân gian người Mỹ gốc Phi xuất sắc nhất từ 1930 đến 1980 đã được trưng bày. Đọc tiểu sử tóm tắt của các nghệ sĩ, tôi phát hiện ra rằng, trong tổng số 20 nghệ sĩ, 16 người – tức 80% – đã bắt đầu vẽ hoặc đạt đến giai đoạn được nhìn nhận trưởng thành trong nghề sau tuổi 65. 30% trong số họ đã 80 tuổi hoặc hơn.
Sau khi xem triển lãm, tôi đã tiến hành một nghiên cứu chính thức về nghệ thuật dân gian ở Hoa Kỳ và thấy rằng, trong xã hội đa dạng sắc tộc và chủng tộc này, nghệ thuật dân gian được thống lĩnh bởi những người lớn tuổi. Nhiều người trong số họ rốt cục đã được tự do theo đuổi nghệ thuật chỉ sau khi hoàn thành các trách nhiệm khác. Tôi thấy năng lực của họ là kết quả của sự tự do bên ngoài, khi thoát khỏi các ràng buộc, kết hợp với sự tự do bên trong của giai đoạn khai phóng, vốn hàm chứa ước muốn thử nghiệm cái mới. Việc toàn bộ một lĩnh vực có thể bị thống lĩnh bởi những người lớn tuổi chính là một tuyên bố hệ trọng và cụ thể về độ sâu của tiềm năng sáng tạo theo tuổi tác.
Dì tôi, Esther Grushka, là bằng chứng minh họa cho phẩm chất phi thời gian của tính sáng tạo. Sau khi dành cả đời mình cho gia đình và chồng, người cùng bà đồng điều hành một chuỗi cửa hàng bán lẻ, bà cảm thấy một nỗi khát khao trỗi dậy muốn được làm gì đó riêng cho mình. Thời còn đi học, các giáo viên vẫn bảo rằng Esther có khiếu hội họa, nhưng bà chưa bao giờ theo đuổi. Thế rồi, ở độ tuổi 60, khi công việc của hai vợ chồng thu hẹp lại và các con đã trưởng thành, Esther bắt đầu vẽ. Một hôm, khi đến thăm bố mẹ tôi, tôi rất ngạc nhiên nhìn thấy một bức họa vẽ tôi treo trên tường phòng khách. Dì Esther đã dùng bức ảnh của tôi lúc tốt nghiệp trung học làm mẫu. Tôi luôn luôn ghét bức ảnh đó, nhưng nét cọ của Esther đã biến nó thành một thứ làm tôi thích thú. Trong 20 năm sau đó, Esther vẫn tiếp tục vẽ, và mặc dù tranh của bà chưa bao giờ được trưng bày, chúng là một nguồn vui khiến bà toại nguyện trong những năm lớn tuổi.
Tiếp tục hoặc chuyển đổi tính sáng tạo
Một số người sớm tìm thấy trong đời con đường khai phá tính sáng tạo và đi theo nó, tạo dựng sự nghiệp bằng năng khiếu của họ. Với những người như vậy, việc bước vào nửa đời sau và trải nghiệm các giai đoạn của tuổi cao niên có thể là chất xúc tác tạo ra phong cách sáng tạo mới.
Đây chính là trường hợp của Herbert Block, tức “Herblock”, tác giả của những bức hí họa về chính trị được đăng khắp cả nước, đóng góp và bồi đắp cho nền văn hóa của ta suốt hơn 70 năm. Tranh đầu tiên của ông ra đời khi ông ở tuổi đôi mươi; tranh cuối cùng của ông được đăng chưa đầy hai tháng trước khi ông qua đời ở tuổi 91. Block ở vào độ tuổi ngoài 60 khi ông vẽ châm biếm vụ bê bối Watergate. Ở thời điểm này, ông đã đủ tự tin để phản bác quan điểm tòa soạn của tờ báo Washington Post mà, dù đã đưa tin về vụ việc, vẫn tiếp tục ủng hộ tổng thống Nixon trong những tháng đầu của cuộc điều tra. Cuối cùng, tất nhiên, tờ báo đã phải chuyển sang quan điểm mà Block đã đưa ra trước đó từ lâu. Tôi thấy đây là một ví dụ của tính sáng tạo được củng cố và mở mang bởi trí thông minh tiến hóa theo tuổi tác.
Block kết thúc tự truyện của mình bằng lời phát biểu đầy tính khám phá về tiềm năng lâu bền của sự sáng tạo: “Luôn luôn có một tấm bảng mới, một trang giấy mới, một không gian đợi chờ, một cơ hội để tiếp tục thể hiện vào ngày mai”.
Người ta cũng thường trải nghiệm sự thay đổi tính sáng tạo trong lúc trải qua bốn giai đoạn của nửa đời sau. Giai đoạn tái đánh giá ở tuổi trung niên có thể đẩy họ theo những hướng mới, chẳng hạn như các vai trò thử nghiệm mà Alan Alda đã theo đuổi trong giai đoạn sau của sự nghiệp. Giai đoạn khai phóng có thể ban cho ta cảm giác mới về tự do nội tâm, trong khi giai đoạn đúc kết có thể thôi thúc ta xử trí một cách sáng tạo với công việc dang dở, hoặc dấy lên ước muốn viết tự truyện. Quan kiến giúp khai mở và đào sâu của giai đoạn encore có thể dẫn đến một sự chuyển dịch trọng tâm sáng tạo tương tự. Ví dụ, nhà toán học và triết gia vĩ đại Bertrand Russell đã dồn sự chú tâm vào toán học ở tuổi trẻ và tuổi trung niên. Khi 42 tuổi, ông và Alfred North Whitehead đã công bố tác phẩm Các nguyên lý toán học (Principia Mathematica) mà nay vẫn là một kiệt tác về logic và tổng hợp toán. Khi lớn tuổi hơn, trọng tâm của ông chuyển sang các vấn đề sâu hơn, đặc biệt là triết học và nhiều tệ nạn xã hội của thời đại chúng ta. Ở tuổi 73, ông xuất bản tác phẩm lừng danh Lịch sử Triết học phương Tây và vẫn nhiệt tình tham gia vào các vấn đề hòa bình và công lý cho đến khi qua đời ở tuổi 98. Trong cuốn tự truyện của mình, được công bố chỉ một năm trước khi qua đời, ông đã viết:
Tôi đã sống trong sự mưu cầu một viễn kiến, cả về cá nhân và xã hội. Về cá nhân: Quan tâm đến những gì ưu tú, những gì tốt đẹp, những gì cao quý; để tạo điều kiện cho những khoảnh khắc tri kiến mang lại sự bác tuệ nhiều hơn. Về xã hội: Để hình dung trong trí tưởng tượng một xã hội được tạo ra để các cá nhân được tự do phát triển, và lòng thù hận, tham lam và ghen tị chết đi vì không có gì nuôi dưỡng chúng.
Ở cấp độ “tiểu” sáng tạo, sự chuyển biến diễn ra như trong ví dụ về một người quen của tôi, Art Reynolds. Art theo nghề thiết kế phần mềm máy tính, với mức lương hậu hĩnh và tay nghề được ngợi khen. Nhưng rồi đến tuổi 60, Art bảo tôi rằng ông cảm thấy Động lực Nội tâm đòi thay đổi. “Công việc của tôi lúc nào cũng là làm vì người khác – làm những gì họ muốn”, ông chia sẻ.
Ông quyết định về hưu bán phần và theo đuổi sở thích về nhiếp ảnh và lĩnh vực thiết kế máy tính mà khi ấy còn mới mẻ. Lĩnh vực này cho phép ông kết hợp nỗi đam mê nghệ thuật thị giác luôn đeo đẳng và chuyên môn kỹ thuật của mình. Hình ảnh ông tạo ra đầy ấn tượng, và khoảng một năm rưỡi sau khi theo đuổi, ông đã được mời trưng bày ảnh tại một cuộc triển lãm về nghệt thuật nhiếp ảnh tiên phong ở một phòng trưng bày địa phương.
Sáng tạo từ tổn thất
Tuổi cao niên đi kèm với một loạt những mất mát mà ta phải thích ứng. Hoạt động sáng tạo có thể giúp ta đối phó và thậm chí vượt qua sự mất mát đó. Trong thực tế, trải nghiệm mất mát thường dấy lên một phản ứng sáng tạo. Trong quá trình này, ta có thể khám phá năng khiếu hoặc kỹ năng mà mình không hay biết hoặc từng đánh giá thấp.
Cuộc sống và công việc của William Carlos Williams là một ví dụ cho mối quan hệ này. Williams là một nhà thơ tài ba kiêm một bác sĩ nhi khoa đáng nể. Ngoài 60, ông bị một cơn đột quỵ làm mất khả năng vận động nhưng trí tuệ vẫn không suy suyển. Ông đành bỏ nghề y, một sự hụt hẫng khiến ông rơi vào trầm cảm nặng. Phải nhập viện và mất nhiều năm ông mới hồi phục từ cú chấn thương ấy, nhưng sau khi hồi phục, ông trải nghiệm được một dòng suối sáng tạo trong những năm 70 tuổi. Khi được 79 tuổi, ông xuất bản cuốn Hình ảnh từ Bruegel, được trao giải Pulitzer. Về sau, Williams đã viết về một “tuổi già được bồi đắp trong mất mát”, mà chính là hình ảnh cuộc sống của ông.
Chính tôi cũng đã trải nghiệm hiện tượng này. Như tôi đã lưu ý ở chương 3, về cuối những năm tứ tuần, tôi đã được chẩn đoán nhầm lẫn mắc bệnh Lou Gehrig. Trong nỗ lực tuyệt vọng để đối đầu với những cơn cảm xúc choáng ngợp, tôi bắt đầu chế tạo các bộ cờ dành cho người lớn tuổi. Cuộc khủng hoảng này và cảm giác mất mát tột cùng đang đến (ngay trong thời điểm tái đánh giá ở tuổi trung niên) đã kích thích các kỹ năng của bản thân mà tôi không biết và đẩy tôi vào một giai đoạn hoàn toàn mới đầy tiềm năng sáng tạo.
Tác động tích cực của sáng tạo đối với sức khỏe
Sự sáng tạo ở tuổi cao niên không chỉ là một môn học hoặc một nét “điểm xuyết” cho cuộc sống theo dạng tốt đẹp, nhưng không thực sự cần thiết. Nhiều nghiên cứu, cả về tâm lý và sinh lý, đã chứng minh rằng sự sáng tạo có lợi cho sức khỏe con người. Và không chỉ khi trực tiếp sáng tạo thì người ta mới bắt đầu khỏe mạnh. Ngay chính hành vi suy nghĩ một cách sáng tạo cũng đã ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe thông qua nhiều sự kết nối tâm/thân. Não của ta kết nối chặt chẽ với cơ thể thông qua các dây thần kinh, nội tiết tố và hệ thống miễn dịch. Bất cứ điều gì kích thích não, làm giảm căng thẳng và thúc đẩy một phản ứng cảm xúc cân bằng hơn sẽ kích hoạt những thay đổi tích cực trong cơ thể. Một số kết quả ban đầu cho thấy sự sáng tạo bền bỉ đẩy mạnh quá trình hồi phục sau khi nhiễm trùng và chấn thương cũng như giảm đau hoặc cảm giác khó chịu vì bệnh mãn tính như viêm khớp. Sự bùng nổ của rất nhiều loại liệu pháp liên quan đến nghệ thuật – khiêu vũ và liệu pháp vận động, âm nhạc trị liệu, thơ ca trị liệu, kịch nghệ trị liệu và nghệ thuật thị giác trị liệu – phản ánh hướng đi này.
Công trình của tôi trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học này bắt đầu năm 2001 với sự tài trợ của Quỹ Bảo trợ Nghệ thuật Quốc gia, phối hợp với 5 nhà tài trợ khác, nhằm tiến hành một nghiên cứu quốc gia chặt chẽ để kiểm tra tác động của các chương trình nghệ thuật cộng đồng đối với sức khỏe và chức năng người lớn tuổi. Nghiên cứu so sánh sức khỏe thể chất và tinh thần và chức năng xã hội của 150 người lớn tuổi tham gia vào các chương trình nghệ thuật với một nhóm đối chứng gồm 150 người trưởng thành không tham gia các chương trình như vậy. Tất cả những người tham gia đều từ 65 tuổi trở lên, hầu hết sống độc lập khi nghiên cứu bắt đầu, và hai nhóm này tương đương về sức khỏe và chức năng lúc bắt đầu nghiên cứu. Những người không thuộc các nhóm nghệ thuật được tự do giao lưu, tham dự các lớp học, hoặc làm bất cứ hoạt động bình thường nào của họ, gồm cả nghệ thuật (mặc dù không ai trong nhóm đối chứng tham gia các chương trình nghệ thuật một cách chặt chẽ và bền bỉ). Chúng tôi muốn thử, đến mức tối đa, để xem có phải tính sáng tạo trong các chương trình nghệ thuật này đã làm nên sự khác biệt.
Các nhóm nghệ thuật có 35 cuộc gặp với tần suất hằng tuần – tương đương một môn ở đại học. Cũng có các bài tập được giao về, như triển lãm và các buổi hòa nhạc. Ví dụ, đội hợp xướng ở một địa bàn nọ phải diễn 10 buổi một năm, ngoài các buổi tập hằng tuần.
Chúng tôi đánh giá sức khỏe và chức năng xã hội của mỗi người bằng bảng câu hỏi toàn diện vào đầu quá trình, giữa quá trình, và cuối quá trình, tức hai năm từ lúc khởi đầu. Giả thuyết của chúng tôi là những người tham gia các chương trình nghệ thuật sẽ suy thoái ít hơn so với nhóm đối chứng, gồm những người không tham gia các chương trình đó. Do đó, chúng tôi đã rất bất ngờ khi kết quả ban đầu vượt quá mong đợi. Nhiều người trong các nhóm nghệ thuật đã ổn định sức khỏe – nghĩa là họ không hề suy thoái chút nào – và một số thật ra còn cải thiện sức khỏe. Điều này diễn ra ở một nhóm người có độ tuổi trung bình 80, tức cao hơn cả với tuổi thọ trung bình hiện tại!
Sau đây là những phát hiện chính của giai đoạn đầu nghiên cứu, được tiến hành tại Washington, D.C., dưới sự chỉ đạo nghệ thuật của Jeanne Kelly thuộc Trường Âm nhạc Levine. (Các nhóm khảo sát đối ứng tương tự đang được nghiên cứu ở Brooklyn, tại tổ chức Người Cao niên Chia sẻ Nghệ thuật, dưới sự dẫn dắt của Susan Perlstein, và ở San Francisco, tại Trung tâm Cao niên và Thanh niên trong Nghệ thuật, dưới sự dẫn dắt của Jeff Chapline). Tất cả các kết quả đều giàu ý nghĩa về mặt thống kê, tức phản ánh sự khác biệt thực chất giữa hai nhóm nghiên cứu. So với nhóm đối chứng, những người tham gia các chương trình nghệ thuật cộng đồng:
• Có sức khỏe tốt hơn sau một năm (những người trong nhóm đối chứng báo cáo rằng sức khỏe của họ không được tốt sau cùng một khoảng thời gian)
• Ít phải đến bác sĩ hơn (mặc dù cả hai nhóm đều phải đến bác sĩ nhiều hơn so với một năm trước đó)
• Dùng thuốc ít hơn
• Cảm thấy ít bị trầm cảm hơn
• Ít cô đơn hơn
• Có tinh thần phấn chấn hơn
• Năng động về mặt xã hội hơn
Những kết quả ban đầu đáng chú ý này đã thu hút sự chú ý ở cả giới khoa học lẫn người dân. Rõ ràng các chương trình nghệ thuật cộng đồng có tác dụng thật sự trong việc nâng cao sức khỏe và phòng chống bệnh tật, từ đó hỗ trợ cho người lớn tuổi khả năng sinh hoạt độc lập và sống trong cộng đồng.
Giải thích kết quả
Các kết quả tích cực của nghiên cứu này được lý giải bởi ba yếu tố hoặc cơ chế chính.
1. Cảm giác tự chủ. Một phần quan trọng trong nghiên cứu về lão hóa mang tên “nghiên cứu về cảm giác tự chủ” cho thấy người lớn tuổi tham gia các hoạt động khiến họ có cảm giác tinh thông và tự chủ sẽ khỏe mạnh hơn những người không tham gia. Điều thú vị là, càng lớn tuổi thì tác động này càng mạnh mẽ. Các chương trình nghệ thuật trong trọng tâm nghiên cứu của chúng tôi đã cho những người tham gia cảm giác tinh thông và tự chủ ngày càng tăng. Mỗi tuần mới giống như một sự tăng liều, với dẫn chứng từ lời những người tham gia:
“Tôi không ngờ mình có thể đọc nhạc giỏi như vậy, và ngày càng khá hơn!”
“Vợ tôi thích món trang sức tôi làm cho bà ấy – thật tuyệt vời cho hai vợ chồng.”
“Tôi không ngờ mình viết tốt như vậy.”
“Nhiều bạn hữu của tôi đã đến xem triển lãm tranh, mà trong đó có ba bức của tôi; tôi quả thật rất vui.”
“Cháu trai của tôi bảo, “Bà ạ, bà là một nhà thơ mà chính bà không hay biết”.”
Cảm giác tinh thông về một lĩnh vực có thể dẫn đến cảm giác có năng lực và lan sang các lĩnh vực khác trong cuộc sống, dẫn đến tự tin nhiều hơn, sẵn sàng chấp nhận rủi ro và nhiệt huyết thử nghiệm cái mới. Điều này giúp giải thích tại sao những người tham gia các chương trình nghệ thuật sau một năm lại giao lưu xã hội nhiều hơn so với những người trong nhóm đối chứng, vốn suy giảm chung tất cả các hoạt động.
Sự gia tăng cảm giác tinh thông và tự chủ cũng trực tiếp làm gia tăng sức khỏe thể chất. Các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực tâm lý thần kinh miễn dịch học – ngành kết nối tâm lý học với miễn dịch học, đã thấy rằng tính tích cực của cảm giác kiểm soát đã tăng cường hệ miễn dịch. Cụ thể, cảm giác an lạc kích thích việc sản sinh các tế bào miễn dịch quan trọng như các tế bào bạch cầu và cái gọi là tế bào tiêu diệt tự nhiên vốn tấn công các tế bào khối u và tế bào nhiễm bệnh.
2. Giao lưu xã hội. Yếu tố quan trọng thứ hai trong kết quả lạc quan của cuộc nghiên cứu là sự giao lưu xã hội thông qua các chương trình hoạt động nghệ thuật. Một lần nữa, bằng chứng từ tâm lý thần kinh miễn dịch học cho thấy đối với con người, sự hình thành hoặc duy trì tình bạn mật thiết, và tham gia vào nhiều môi trường xã hội đều khiến sức khỏe tốt hơn và tỉ lệ tử vong giảm xuống. Ví dụ, các mối quan hệ xã hội tích cực trong nửa đời về sau gắn liền với tình trạng giảm huyết áp. Các mối quan hệ hữu hảo cũng làm mức độ căng thẳng giảm xuống thấp hơn, giúp bảo toàn hệ miễn dịch.
Một trong những ấn tượng thấy được ở những người tham gia các nhóm nghệ thuật là mức độ mà các thành viên hỗ trợ nhau khi gặp phải sự mất mát hoặc gặp khó khăn. Ví dụ, khi một phụ nữ trong nhóm viết văn Brooklyn của chúng tôi nằm viện, nhiều thành viên đã đến thăm bà, mang bài tập đến giúp bà, thảo luận về bài viết của bà và mang bài của bà trở lại cho nhóm để tiếp tục lấy thêm phản hồi.
“Tinh thần của tôi hết sức phấn chấn”, bà kể. “Chắc chắn điều đó sẽ đẩy nhanh tốc độ phục hồi của tôi. Tôi nôn nóng muốn bắt nhịp trở lại để chia sẻ một bài viết khác với cả nhóm”.
3. Bản chất cuốn hút của nghệ thuật. Để đạt hiệu quả về lâu dài, bất kỳ hoạt động bổ trợ sức khỏe nào cũng cần phải duy trì liên tục. Điều này có thể gặp khó khăn với các hoạt động vốn dĩ nhàm chán (như luyện tập trên máy chạy bộ) hoặc khó chịu (chẳng hạn những cơn đói do ăn kiêng hoặc cơn đau do luyện tập). May thay, bản chất của hoạt động sáng tạo khiến nó tự thân được duy trì; bởi các loại hình nghệ thuật hầu như luôn thú vị, kích thích và vui thú. Là hoạt động mang tính tinh thông lẫn giao lưu xã hội, các chương trình nghệ thuật cộng đồng đã trở thành “cơ hội trọn gói” giúp nâng cao sức khỏe. Và chúng dễ triển khai thực hiện hơn các phương án khác: Hầu hết các địa phương đều có nguồn lực để khởi sự một chương trình nghệ thuật cộng đồng.
Bản chất cuốn hút của nghệ thuật đã duy trì sự tự nguyện tham gia, và, như ta đã thấy trong chương 6, các hoạt động tái diễn theo thời gian có giá trị nhiều hơn các trải nghiệm nhất thời. Nghiên cứu về tính sáng tạo đã chứng minh điều này. Nhiều người trong nhóm đối chứng cũng “bận rộn” hệt như những người tham gia các chương trình nghệ thuật. Nhưng việc tham gia thuần túy vào nhiều hoạt động nhất thời, thiếu khả năng bồi đắp cảm giác tinh thông hoặc tạo dựng quan hệ mới, đã không giúp cải thiện sức khỏe. Không phải cường độ hoạt động mà bản chất của hoạt động mới mang lại hiệu quả.
Một cuộc đối thoại của tôi với một người tham gia trong nhóm ở Washington, D.C., đã minh họa ý này. Margaret Spencer đã 94 tuổi khi tham gia một dàn hợp xướng trong chương trình sinh hoạt. Bà ngần ngại tham gia vì không biết liệu có đọc nhạc kịp hay không. Nhưng được những người khác khích lệ nên bà đã tham gia.
“Tôi ngạc nhiên rằng mình có thể hát hay hơn tôi tưởng và có thể theo kịp”, bà kể với tôi. “Tôi thậm chí còn giỏi lên! Tôi đã 94 tuổi và đang có bạn mới. Tôi muốn tiếp tục hoạt động này”.
Tóm lại: Bất kỳ loại chương trình bổ trợ sức khỏe nào cũng nên tạo điều kiện để người tham gia có được cảm giác tinh thông và tự chủ; nên hỗ trợ sự giao lưu xã hội và tạo dựng các mối quan hệ; và nên có bản chất phát triển bền vững về lâu dài.
Cơ bản nhất, nghiên cứu này, cũng như cả cuốn sách này, cho thấy lợi ích có thể đạt được từ việc làm chủ lối sống và số phận của bản thân. Nếu muốn, chúng ta có thể học hỏi, phát triển, yêu thương và trải nghiệm hạnh phúc sâu sắc ở những năm cao niên. Ta không cần phải chống chọi với khó khăn, cũng không cần chấp nhận những ngộ nhận về tuổi cao niên. Thiên nhiên phú cho ta tiềm năng trí óc cần thiết để cải thiện sức khỏe, các mối quan hệ và cuộc sống. Tôi hy vọng cuốn sách này và những câu chuyện tôi kể sẽ khích lệ để bạn khởi sự – ngày hôm nay – làm cho cuộc sống của chính mình có ý nghĩa.
Tồn tại là thay đổi, thay đổi là trưởng thành, trưởng thành là tiếp tục sáng tạo bản thân không ngừng.
Henri Bergson