NHẬN THỨC, TRÍ NHỚ VÀ SỰ UYÊN BÁC
Những cánh cửa uyên bác không bao giờ đóng.
• Benjamin Franklin
Trên chiếc bàn trong một căn phòng trần cao của Bảo tàng Nhà nước Georgia thuộc Liên Xô cũ, có một cái hộp sọ được bày trơ hốc mắt. Chiếc hộp sọ không câm lặng như thoạt trông. Đối với các nhà nhân học đã khai quật nó, chiếc hộp sọ thì thầm mách bảo những thông điệp về tầm quan trọng của người cao tuổi trong xã hội nguyên thủy cổ đại. Chiếc hộp sọ này là bằng chứng xa xưa nhất – khoảng 1,8 triệu năm trước – về sự xuất hiện của một lực mới tác động mạnh đến con đường tiến hóa của loài người: trí tuệ.
Các nhà nhân chủng học tại bảo tàng gọi chiếc hộp sọ này là “lão già”, mặc dù họ ước tính rằng cá thể họ Người (Hominid) này – thuộc loài trực nhân hay người đứng thẳng (Homo erectus) – chỉ khoảng 40 tuổi khi qua đời. Thật vậy, tất cả các hộp sọ khác được tìm thấy trong cùng địa tầng đều có vẻ nhẵn nhụi hơn nhiều, với đường nét nhỏ nhắn, duyên dáng và còn nguyên vẹn răng, cho thấy độ tuổi nhỏ hơn vào lúc chết. Thọ 40 tuổi vào thời đó ắt tương đương với cột mốc trăm tuổi ngày nay. Nhưng điều lý thú về “lão già” là chi tiết này: Ông ta không những không có răng, mà các ổ răng đều trơn tru, được lấp bởi xương mọc tràn ra ngoài. Sự tái phát triển xương này cho thấy “lão già” đã sống nhiều năm sau khi răng rụng. Vào thời điểm mà những kẻ thuộc họ Người hầu như vừa là con mồi vừa là động vật săn mồi, lời giải thích hợp lý nhất cho đặc điểm kỳ lạ này là ông ta đã được đồng loại giúp đỡ – ông ta được nuôi ăn và chăm sóc. Và điều này có nghĩa là ông ta đã được trân trọng.
Chúng ta không thể biết người này đã đóng góp những gì cho cộng đồng, nhưng cách hiểu hợp lý nhất là ông ta đã được đánh giá cao bởi sự hiểu biết. Mặc dù không thể nào xác định chính xác nguồn gốc của ngôn ngữ (âm thanh không thể hóa thạch), bằng chứng về kích thước não và các cấu trúc xương sườn đã khiến một số nhà nhân chủng học cho rằng trực nhân, và thậm chí cả xảo nhân hay người khéo léo (Homo habilis) trước đó, đã có khả năng đưa ra một hình thức ngôn ngữ nào đó. Có thể chính việc phát minh và sử dụng ngôn ngữ là yếu tố quyết định sự thành công của trực nhân so với các loài khác thuộc họ Người cùng thời, chẳng hạn như người Neanderthal. Trong mọi trường hợp, khả năng truyền thừa kiến thức từ thế hệ này sang thế hệ khác là một di sản khổng lồ và ắt sẽ nâng cao giá trị của những thành viên nào trong cộng đồng tích lũy được nhiều kiến thức nhất và có thể truyền đạt lại kiến thức cho người khác – như bậc trưởng lão.
Khi khối kiến thức của con người lớn lên qua các thời đại, và khi đời sống xã hội và văn hóa của loài người chúng ta trở nên phức tạp hơn, giá trị của người lớn tuổi cũng gia tăng. Đây là lý do tại sao sự chọn lọc tự nhiên lại khiến con người có tuổi thọ khá cao mặc dù khả năng sinh sản của phụ nữ thường kết thúc vào cuối độ tuổi bốn mươi. Rõ ràng, ở con người, năng lực giảng dạy, truyền giao trí tuệ và kỹ năng, và khả năng đóng góp như tàng thư của nền văn hóa cũng quan trọng chẳng kém khả năng sinh sản. Sự phức tạp của xã hội toàn cầu ngày nay và sự đa dạng của các kỹ năng cần thiết để làm chủ sự phức tạp đó càng làm gia tăng tầm quan trọng của những người lớn tuổi trong xã hội.
Sự uyên bác và tư duy hậu hình thức
Vậy chính xác thì sự uyên bác là gì, và nó phát triển ra sao? Một định nghĩa chuẩn nêu rằng sự uyên bác là “sự vận dụng tốt nhất kiến thức sẵn có”. Lối nghĩ khá thực dụng này ngụ ý rằng sự uyên bác đòi hỏi kiến thức cụ thể cũng như sự hiểu biết rộng về bối cảnh có thể áp dụng kiến thức đó. Nhưng định nghĩa này không hoàn toàn thỏa mãn. Đối với hầu hết mọi người, sự uyên bác cũng đòi hỏi phải có một quan kiến hỗ trợ cho lợi ích chung dài hạn thay vì chỉ lợi ích riêng ngắn hạn. Sự tinh tường và những hành động mà nhiều người cho rằng khôn ngoan thường dựa vào kinh nghiệm quá khứ nhưng cũng có khả năng dự báo kết cục trong tương lai. Những hành động khôn ngoan, nói cách khác, phải nhìn cả phía sau và phía trước. Sự uyên bác cũng thường được hiểu là sự hiểu biết bằng nhiều hình thức của trí tuệ – lý trí, trực giác, con tim và tâm hồn. Về cơ bản nó là biểu hiện của trí thông minh tiến hóa – một sự tích hợp chín chắn kỹ năng tư duy, trí tuệ cảm xúc, khả năng phán đoán, kỹ năng xã hội và kinh nghiệm sống.
Tâm lý học đương đại đã làm sáng tỏ một thành phần quan trọng trong tư duy cao cấp (nhận thức), vốn là một thành tố quan trọng của sự uyên bác: tư duy hậu hình thức. Tôi đã đề cập khái niệm này trong chương 2 vì tư duy hậu hình thức góp phần đáng kể vào trí thông minh tiến hóa. Tư duy chính thức chú trọng lý luận thuần túy để giải quyết vấn đề và nó phù hợp nhất với dạng vấn đề được xác định rõ bằng các quy tắc thao tác minh bạch, như trong toán học và các ngành khoa học “chính thống”. Jean Piaget, một trong những người sáng lập ngành phát triển nhận thức, cho rằng chất lượng của “tư duy thuần túy” đạt đến đỉnh điểm ở tuổi thiếu niên và trưởng thành. Ông cho rằng “trưởng thành” có nghĩa là suy nghĩ như một nhà khoa học.
Nhưng nhiều người hiện cho rằng quan điểm này là quá hạn chế. Đời thực không được định nghĩa rạch ròi như toán học. Các nguyên tắc không phải lúc nào cũng rõ ràng, và kiến thức không phải luôn tuyệt đối. Khái niệm tư duy hậu hình thức đã được đưa ra để mô tả lối tư duy tinh tế hơn, linh hoạt hơn và thấu đáo hơn mà chỉ có thể phát triển theo thời gian. Tư duy hậu hình thức có giá trị lớn đối với những vấn đề thiếu minh định, mơ hồ mà có thể có nhiều giải pháp. Nó chú trọng nhiều hơn vào những gì có bản chất tương đối thay vì tuyệt đối, và chú trọng nhiều đến xác định vấn đề lẫn giải quyết vấn đề. Hầu hết các tình huống nan giải về đạo đức mà ta đối mặt ngày nay đều rơi vào dạng này. Việc dùng tế bào gốc từ phôi thai để chữa bệnh, chẳng hạn, đòi hỏi phải cân nhắc các hệ giá trị giằng co nhau, phải làm rõ các vấn đề ẩn chứa nguy cơ và phải xem xét vô số các giải pháp để tìm nền tảng chung. Hãy nhớ rằng tư duy hậu hình thức gồm ba loại lý luận – tư duy tương đối, tư duy biện chứng và tư duy hệ thống, được nêu rõ trong chương 2. Mỗi phương thức tư duy này đều là kết quả của sự phát triển nhận thức không ngừng khi ta lớn lên, học hỏi và thu thập kinh nghiệm. Tư duy hậu hình thức phù hợp với khái niệm rộng về trí thông minh tiến hóa vì nó cho phép ta phối hợp cảm xúc và lý trí tốt hơn để giải quyết vấn đề. Khả năng của ta huy động ngày càng nhiều kỹ năng trí óc ắt liên quan đến sự vận dụng ngày càng cao cả hai bán cầu não phải và trái, vốn là đặc điểm của não bộ thành thục. Nhiều người trong chúng ta ở nửa đời về sau đã nhớ lại những lúc vào thời trẻ mà ta cảm thấy mình biết rất nhiều, nhưng vẫn không huy động được kiến thức để giải quyết một vấn đề khó khăn. Thế rồi, đến tuổi trung niên, ta lại thường có thừa hiểu biết để xử lý hiệu quả các vấn đề mà trước đây làm ta mất ăn mất ngủ. Ví dụ, hầu hết học sinh trung học đều nắm kiến thức cơ bản về rượu: rằng nó là chất ức chế hệ thần kinh trung ương, có tác dụng an thần và có thể làm cho ta buồn nôn nếu uống quá nhiều. Tuy nhiên, tự thân thông tin đó hiếm khi đủ để khiến ai đó quyết định uống rượu một cách khôn ngoan (hoặc quyết định không uống). Quá trình uống rượu quả thật phức tạp với nhiều biến số, chẳng hạn như xu hướng nghiện do di truyền, cơ chế trao đổi chất đặc thù của mỗi cá nhân, hiệu ứng của rượu cũng liên quan mật thiết đến hoàn cảnh uống rượu, và cả những hiệu ứng khác biệt trong quá trình say. Bằng kinh nghiệm, người ta dần dần biết được những yếu tố tinh tế này và đặc thù của cơ thể cũng như hoàn cảnh sống của chính mình, mà (trong trường hợp không hoàn toàn nghiện) có thể dẫn đến những quyết định khôn ngoan khi uống rượu. Chỉ lý luận không thôi thì không đủ để dẫn dắt – ta phải dựa vào tư duy hậu hình thức.
Một ví dụ lịch sử về tư duy hậu hình thức là câu chuyện một nhà tự nhiên học trẻ hồi thế kỷ 19 đã hành động theo kinh nghiệm. Từ năm 20 đến 27 tuổi, người này đi khắp thế giới để thu thập hàng ngàn tiêu bản động thực vật và ghi lại những quan sát của mình vào hàng chục cuốn sổ. Mặc dù đã có những khám phá đầy thú vị về các loài mới, người này vẫn tìm cách để có được một cái nhìn toàn cục hơn. Phải mất 23 năm tư duy một cách thấu đáo, nghiên cứu và trao đổi với những người khác thì các mảnh ghép của bức tranh mới được ráp lại để ông cảm thấy thỏa đáng và công bố. Ở tuổi 50, cuốn sách của ông ra đời và được đón nhận bằng cả sự tán dương lẫn chỉ trích. Người ấy là Charles Darwin, và cuốn sách cần quá nhiều thời gian để thai nghén ấy chính là Nguồn gốc các loài.
Tư duy hậu hình thức và các giai đoạn của tuổi cao niên
Ở giai đoạn I, tái đánh giá ở tuổi trung niên, các năng lực mới trỗi dậy về tư duy hậu hình thức có thể vừa xoáy sâu vừa giúp giải tỏa cảm giác mâu thuẫn vốn phổ biến trong đoạn đời này. Các năng lực hậu hình thức – nhằm suy nghiệm nhiều câu trả lời cho một vấn đề, nhằm xem xét các giải pháp mâu thuẫn nhau, và nhằm nhận ra cuộc đời tương đối đến đâu – chính là các công cụ cần thiết trong giai đoạn này. Ta bắt đầu đặt ra các câu hỏi mới, xem xét nhiều phương án trước khi chọn giải pháp, và đưa ra quyết định trong sự phối hợp chặt chẽ lý trí với cảm xúc. Đây là động lực tâm lý cơ bản của giai đoạn tái đánh giá ở tuổi trung niên vốn thường tích cực (mặc dù trăn trở về mặt cảm xúc). Đồng thời, môi trường tâm lý bên trong đang biến đổi, do ảnh hưởng của tư duy hậu hình thức, cũng khiến ta xem trọng trực giác hơn.
Sự hòa trộn hậu hình thức của “trái tim” và “khối óc” cũng giúp ích cho giai đoạn khai phóng, như được minh họa qua câu chuyện sau đây.
Marilyn Andrews vẫn hằng dự tính nghỉ hưu với chồng vào năm 65 tuổi. Nhưng đến năm bà 62 tuổi, người chồng đột ngột qua đời. Marilyn đảm trách công việc trợ lý hành chính cho một luật sư đã hơn 20 năm. Năm bà 64 tuổi, vị luật sư nghỉ hưu và đóng cửa văn phòng. Giờ đây là một góa phụ không có con cái, Marilyn cần một công việc khác. Bất chấp lá thư tiến cử đầy lời khen và lý lịch chuyên môn sáng giá, bà vẫn bị nhiều nhà tuyển dụng từ chối khi khai rằng mình đã 64 tuổi. Họ cho biết muốn tìm một người sẽ tiếp tục làm việc từ 10 đến 15 năm nữa.
Marilyn suốt đời lúc nào cũng là người nghiêm chỉnh, luôn tuân thủ các nguyên tắc. Nhưng bây giờ bà nhận ra tuổi tác đang khiến mình gặp bất lợi mặc dù bà trông trẻ hơn nhiều so với tuổi. “Nếu mình cứ nói dối về tuổi thì sao nhỉ?”, bà tự hỏi. Ý nghĩ nói dối để đánh lừa người khác khiến bà bật cười. “Tại sao không chứ?”, bà tự nhủ. “Điều tệ hại nhất có thể xảy ra là gì? Cùng lắm thì họ sa thải mình”.
Marilyn cảm thấy phấn khích với âm mưu của mình. Bà mua một bộ cánh mới để diện mạo trông trẻ hơn nữa, và dự phỏng vấn xin việc. Như mọi người, nhà tuyển dụng cảm thấy ấn tượng với sơ yếu lý lịch (mà trong đó bà không nêu tuổi) và kinh nghiệm của bà. Khi họ hỏi bà dự định làm việc với họ bao lâu, bà bảo 15 năm, đến khi có thể nghỉ hưu ở tuổi 65. “Tôi lắng nghe lý trí, nhưng tôi đoán mình làm theo con tim”, bà kể. Bà được nhận vào làm việc và đã giữ lời, về hưu 15 năm sau ở tuổi 80. “Thật là một cuộc phiêu lưu kỳ thú!”, bà chia sẻ.
Tôi thấy chính Động lực Nội tại trong giai đoạn khai phóng, kết hợp với năng lực tư duy hậu hình thức đang nảy nở, đã thúc giục bà liều chọn một phong cách hành động trước đây xa lạ với chính mình.
Câu chuyện của Sam Sheldon, 78 tuổi, minh họa cho sự phát triển nhận thức ở giai đoạn đúc kết. Sam, đối tượng tham gia một cuộc nghiên cứu của tôi, kể rằng ông muốn thử viết tiểu thuyết. Ông quyết định tập sáng tác bằng cách viết hồi ký, vốn là một chỉ dấu kinh điển của giai đoạn đúc kết. “Tôi biết thể loại đó không phải là hư cấu”, ông kể với một nụ cười, “nhưng một số trải nghiệm thực tế của tôi còn lạ hơn hư cấu”.
Trong quá trình viết hồi ký, ông bị một cơn đau tim. Ông hồi phục tương đối nhanh, nhưng biến cố này đã buộc ông phải cân nhắc dọn khỏi căn nhà đã từng sống suốt 45 năm. Ông có ba sự lựa chọn: một ngôi nhà nhỏ hơn; một căn hộ trong một tòa nhà với cư dân thuộc nhiều độ tuổi; hoặc một cộng đồng hưu trí với nhiều tiện ích về y tế khi cần. Thay vì nghiền ngẫm các phương án này, ông đã nảy ra ý tưởng thú vị: Ông sẽ soạn ra giấy ba kịch bản mô tả đời sống của mình theo từng bối cảnh. Đó là một ví dụ tuyệt vời của sự uyên bác – pha trộn các kỹ năng giải quyết vấn đề khách quan và chủ quan. Cuối cùng ông quyết định dọn đến khu căn hộ, mặc dù biết rằng phương án có tiện ích y tế sẽ hợp lý hơn nếu sức khỏe của ông sa sút. “Khi bắt đầu hình dung đời sống của mình theo từng kịch bản”, ông nói, “tôi thấy có nhiều thứ để viết hơn khi sống với đủ mọi dạng người trong khu căn hộ thay vì chọn theo hai phương án kia”.
Tư duy hậu hình thức và sự uyên bác cũng thường rõ nét trong giai đoạn encore. Tôi gặp Elinor Frank, 96 tuổi, trong lần ghé thăm một cơ sở điều dưỡng. Bà kể rằng một tuần trước đó, một người đồng ngụ cư khác đã khó chịu với bà. “Bà hành xử ngớ ngẩn”, người kia bảo Elinor. “Tại sao bà không hành xử xứng với tuổi tác?”. Thay vì nổi cáu trở lại, Elinor đã đáp theo phong cách đặc trưng của tư duy hậu hình thức: trả lời một câu hỏi bằng một câu hỏi khác để đặt lại vấn đề theo góc nhìn bao quát hơn.
“Tôi nên hành xử xứng với tuổi tác như thế nào?”, bà hỏi, với tinh thần của giai đoạn encore. “Hãy nói cho tôi cách hành xử khi 80, hay 90, hay 100 tuổi. Thỉnh thoảng bất ngờ một chút không tốt sao, để người khác không nhìn mình bằng con mắt nghiễm nhiên?”.
Kiến tạo sự uyên bác
Sự trưởng thành của năng lực tư duy cũng như sự phát triển tổng thể của trí thông minh tiến hóa phụ thuộc mật thiết vào những thay đổi của não bộ “ở hậu trường”. Não của ta không bao giờ mất đi khả năng học hỏi bằng cách hình thành các khớp thần kinh mới, sợi nhánh mới và thậm chí các tế bào não hoàn toàn mới. Những năng lực cơ bản này, cũng như khả năng rõ rệt của não lớn tuổi trong việc huy động các vùng mới của bán cầu kia để thực thi các tác vụ cụ thể, đã dư bù đắp mức tổn thất thực tế – nhưng chậm rãi – về tốc độ truyền tín hiệu hoặc sự tổn thất tế bào não. Nhưng sự phát triển của não còn một khía cạnh khác nữa khiến ta lạc quan.
Nếu cắt lát một phần của não bộ, ta sẽ thấy một lớp khá mỏng trên cùng màu xám bao phủ phần lớn mô não, vốn màu trắng. Chất xám này được cấu thành chủ yếu từ thân và sợi nhánh của các tế bào não. Hàng tỉ tế bào này mang lại cho ta nhiều chức năng trí óc, như cảm nhận, ngôn ngữ và tự nhận thức, cũng như để kiểm soát cơ thể. Chất trắng được cấu tạo chủ yếu bằng phần mở rộng dài như đuôi của tế bào não – sợi trục thần kinh – thành phần truyền thông điệp đến các tế bào khác trong não hoặc cơ thể. Các sợi trục giống như cáp băng thông rộng có khả năng truyền tín hiệu đi với cự ly xa. Nói cách khác, chất trắng cũng giống như dây dẫn Internet kết nối tất cả “người sử dụng”, tức các tế bào và mạng lưới các tế bào trong chất xám.
Mỗi sợi trục được bao quanh bởi một chất béo gọi là myelin, có vai trò như chất cách điện, giúp tăng cao tốc độ truyền tín hiệu. Chính chất myelin đã làm cho chất trắng có màu trắng. Myelin được bổ sung liên tục vào sợi trục thần kinh trong 40 năm đầu đời, đạt đỉnh điểm về khối lượng ở độ tuổi khoảng 50, và tiếp tục hình thành với một tốc độ chậm hơn cho đến cuối đời. Kết quả thực tiễn mà quá trình không nghỉ này mang lại là sự điều phối ngày càng hoàn thiện hơn giữa nhiều vùng não, sự phối hợp các bán cầu não hiệu quả hơn, và sự truyền tín hiệu hiệu quả hơn trong toàn não bộ, mà tất cả đều góp phần làm nên cách nghĩ linh hoạt hơn và giàu sắc thái hơn của tư duy hậu hình thức và sự uyên bác trong nửa đời về sau.
Một số nghiên cứu đã củng cố quan điểm này, cho thấy nhiều năng lực trí tuệ và nhận thức của ta đạt đỉnh điểm không phải vào lúc trưởng thành thời trẻ, mà ở tuổi trung niên hoặc sau đó nữa. Các nhà tâm lý Sherry Willis và K. Warner Schaie, bằng Cuộc nghiên cứu Lưu niên Seattle, đã theo dõi một nhóm nam nữ từ năm 1956. Họ thấy các đối tượng ở tuổi trung niên đều đạt điểm cao hơn ở hầu hết chỉ số về chức năng nhận thức so với những gì bản thân họ đạt được khi 25 tuổi – năng lực ngôn ngữ và tính toán, khả năng lý luận và trí nhớ ngôn từ đều cải thiện.
Câu chuyện của Helen
Trong cuốn sách của tôi về tính sáng tạo ở nửa đời về sau, Thời sáng tạo (The Creative Age), tôi đã phác ra sự khác biệt giữa “đại” sáng tạo – những tác phẩm nghệ thuật hoặc phát minh vĩ đại và bền lâu – và “tiểu” sáng tạo, tức những hành động nhỏ, mới lạ và tự phát trong cuộc sống hằng ngày – đặt bánh pizza giao để quá giang đến nơi hẹn ăn tối, chẳng hạn, như ông bà nhạc của tôi đã làm trong chương 1. Tôi nghĩ có thể áp dụng khái niệm tương tự cho sự uyên bác. Có dạng “đại” uyên bác, như các tư tưởng về dân chủ và nhân quyền trong Hiến pháp Hoa Kỳ, và “tiểu” uyên bác – để hòa giải một cuộc ẩu đả ở sân chơi hoặc khuyên giải đối với một thiếu nữ đang rối trí về quan hệ. Câu chuyện của Helen Herndon, một đối tượng nghiên cứu của tôi, sẽ minh họa cho dạng “tiểu” uyên bác này, xuất phát từ trí thông minh tiến hóa thành thục của bà.
Ở tuổi 67, Helen thấy mình sống neo đơn một mình trong ngôi nhà lớn, khi hai người con đã lập gia đình và sống xa hàng trăm dặm, chồng bà đã qua đời sau một thời gian chống chọi với bệnh bạch cầu. Hơn một năm trời, bà tồn tại trong thế giới nhập nhoạng của sự mất mát, đầu óc lan man và mụ mị. Trách nhiệm chăm nom nhà cửa một mình vượt quá sức của bà, nhưng bà không đủ tự tin để tìm ra một giải pháp.
Là con út trong năm người con, bà đã lớn lên quen được chăm sóc. “Dường như tôi cứ đinh ninh hễ có chuyện gì quan trọng, mình đều không thể tự làm”, bà nói với tôi.
Nhưng tháng ngày trôi qua, Helen – gần như bực bội với bản thân – ngày càng khó chịu với tính thụ động và sự trì trệ của mình. Khi một người con gợi ý bà tham gia một hội góa phụ, bà đã nghe theo. Quyết định của bà trỗi dậy từ sự thúc giục sâu xa muốn kết nối, tìm thấy ý nghĩa, mục đích và sự chia sẻ. Rốt cục đó là một quyết định thật khôn ngoan.
Trước khi cưới, Helen đã lấy được bằng thạc sĩ về giáo dục chuyên biệt. Tuy nhiên, bà chưa bao giờ đi dạy vì sau khi tốt nghiệp đã lấy chồng và có con. Mặc dù sự thiếu tự tin đã cản trở bà tìm kiếm thậm chí một công việc bán thời gian trong những năm sau đó, bà vẫn cập nhật kiến thức của ngành này, vẫn đọc tài liệu chuyên môn và định kỳ tham dự các buổi hội thảo và hội nghị về chứng đọc kém của nhi đồng.
Giờ đây, được thôi thúc bởi Động lực Nội tâm, Helen tìm cách khai thác vốn chuyên môn đó. Bà khởi sự bằng một bước đi táo bạo để đơn giản hóa nếp sống: bán căn nhà của gia đình và chuyển đến một khu căn hộ nơi nhiều thành viên trong hội góa phụ của bà đang sống. Bà bắt đầu suy nghĩ nghiêm túc về việc trở thành một chuyên gia dạy tập đọc và bàn về ý này với nhóm của mình.
“Những cảm giác này thật mới lạ đối với tôi”, bà nói.
Biết được kỹ năng của Helen, một hôm một người trong nhóm đã nhờ Helen thẩm định đứa cháu gái của mình vốn có vấn đề về đọc. Khi Helen gặp đứa bé, ngay lập tức nó thích bà. Việc dạy đọc tiến triển tốt đẹp và tiếng lành đã mang đến cho Helen những thân chủ khác.
Một ngày kia, Helen chợt có ý nghĩ đột phá muốn tổ chức một số buổi dạy đọc ở thư viện địa phương, mà bà thấy sẽ hiệu quả vì trẻ em được đắm mình trong không gian sách. Trong một phiên giảng buổi chiều của bà, một phóng viên địa phương đã gặp và phỏng vấn bà về vai trò của thư viện trong cộng đồng. Bài báo này và hình ảnh đăng kèm đã mang lại tiếng tăm đầy giá trị cho Helen. Sự tự tin của bà được dịp nảy nở cùng với cơ hội mới mẻ để giao lưu xã hội. Bà soạn một tờ giới thiệu về công việc của mình và phân phát cho các trường tiểu học gần đó. Một lần nữa, bà cảm thấy rất bất ngờ và hân hoan trước nhiệt huyết và sự tự tin của chính mình. “Tôi gần như không nhận ra bản thân mình”, bà vừa nói vừa mỉm cười.
Giờ đây, với lịch trình giảng dạy bận rộn, Helen đang sống hết mình cho bản thân và cộng đồng, và đang phụng sự như một nguồn kiến thức và thông tuệ quý giá đối với cả trẻ em và người lớn xung quanh mình. Bà là một ví dụ đặc sắc cho những người đi qua giai đoạn khai phóng ở nửa đời về sau, và cũng là hiện thân cho người biết khai thác sự uyên bác đang trỗi dậy để tạo ra cơ hội mới tích cực cho bản thân.
Trí nhớ: nền tảng của sự uyên bác
Trước đây tôi đã mô tả sự uyên bác như kiến thức thâm sâu để đạt đến lợi ích tối ưu. Những sự lựa chọn khôn ngoan thường đòi hỏi phải dựa vào cả lý trí và trực giác, bán cầu não phải và trái, lý trí và con tim. Tôi tin rằng những sự biến đổi và tăng trưởng không ngừng của não trong nửa đời sau đã hỗ trợ mạnh mẽ để chúng ta trở nên uyên bác và, như câu nói của Ben Franklin ở đầu chương này, khả năng này không bao giờ cạn kiệt.
Tôi muốn nhìn sâu hơn một chút vào hiện tượng này. Đặc biệt, tôi muốn tìm hiểu tiến trình não nền tảng của sự uyên bác và, thực chất, của tất cả các chức năng nhận thức: trí nhớ. Để suy nghĩ, quyết định và hành động khôn ngoan, ta phải truy cập vào tàng thư ký ức đồ sộ – ký ức cũ và mới, ký ức ngôn từ và phi ngôn từ, ký ức cảm xúc và trí tuệ. Những ai đã nhìn thấy người mắc bệnh Alzheimer đều biết, nếu thiếu trí nhớ, chính bản thể của ta cũng tan biến. Tôi đã thấy nhiều người lớn tuổi sợ bị mất trí nhớ thậm chí còn hơn sợ chết. Chúng ta hầu hết đều hiểu rằng một cuộc sống thiếu vắng ký ức là một cuộc sống không hơn gì của bóng ma.
May mắn thay, nghiên cứu thần kinh học đã cho những kết quả ấm lòng. Mặc dù tốc độ xử lý chung của tế bào não và một số dạng trí nhớ cụ thể suy giảm dần theo tuổi tác, các hình thức trí nhớ khác đều đề kháng tiến trình suy thoái một cách mãnh liệt. Sự mất trí nhớ toàn diện không phải là hệ quả tất yếu của quá trình lão hóa, và có nhiều biện pháp để ổn định hoặc cải thiện trí nhớ khi ta già đi. Và đây là một thông tin ít được biết: khác với đĩa cứng của máy tính, chưa ai biết đến một giới hạn nào về dung lượng bộ nhớ của não. Nói cách khác, ta lớn tuổi không có nghĩa là ta đã “dùng hết” dung lượng bộ nhớ trong não.
Để hiểu rõ nguyên lý này, ta cần hiểu một chút về cấu tạo mạch dẫn lạ thường của não. Như ta đã thấy trong chương 1, não được cấu tạo bởi hàng tỉ tế bào thần kinh riêng biệt, và mỗi một tế bào thần kinh này có hàng ngàn sợi nhánh và trục sợi nhánh để kết nối với các tế bào thần kinh khác. Con số cách thức mà các sợi nhánh này kết nối với nhau lớn đến mức gần như không tưởng. Và, do ký ức nằm ở chính mô thức kết nối này, các giới hạn về bộ nhớ chỉ mang tính luận lý, chứ không thực chất. Ta chỉ bị giới hạn bởi thời gian có được trong đời để học hỏi – não của ta (nếu lành lặn) có thể chứa lượng thông tin của nhiều đời.
Để hiểu rõ hơn điều này, hãy hình dung một sân bóng đá đông đúc. Ở một khán đài có 200 người đang cầm những tấm bìa, một mặt sơn đỏ, mặt kia sơn đen. Theo hiệu lệnh của người chỉ huy, mọi người sẽ đưa bìa lên trên đầu, để phơi ra màu đỏ hoặc màu đen. Bằng cách luyện tập và phối hợp, 200 người này có thể xếp được một số lượng từ ngữ và hình ảnh nhiều không thể ngờ – mà cụm từ “Cố lên!” chẳng hạn, chỉ là một trong hàng triệu cách xếp chữ đồng diễn. Đây chỉ là nét khái quát về cơ chế của trí nhớ. Trải nghiệm sẽ tái sắp xếp các kết nối giữa các tế bào não, cho phép mạng lưới thần kinh “nhớ” một lượng lớn các mô thức kích hoạt khác nhau. Những mô thức ấy có thể chứa quy tắc mã của một ký tự, một gương mặt, một khung nhạc hoặc mùi thơm của chanh tươi mới cắt. Điểm mấu chốt: Não của chúng ta có không phải 200 mà hàng tỉ tế bào thần kinh, và đó là lý do tại sao dung lượng trí nhớ của não thực chất là vô hạn. Thông điệp đầy hy vọng này về lão hóa chỉ mới bắt đầu được mọi người biết đến.
Các khía cạnh khác của trí nhớ cũng đáng được quan tâm. Bằng kinh nghiệm, hầu hết mọi người đều biết đến hai dạng trí nhớ tổng quát: ngắn hạn và dài hạn. Nhưng giờ đây ta biết rằng trí nhớ con người phức tạp hơn thế nhiều. Hiện nay, các nhà khoa học dùng thuật ngữ “trí nhớ thao tác” để chỉ những gì hầu hết mọi người gọi là “trí nhớ ngắn hạn”. Trí nhớ thao tác giống như bàn làm việc trong trí óc, nơi ta tạm giữ thông tin cần thiết cho tác vụ đang diễn ra. Đây là nơi ta lưu trữ một số điện thoại trong khi đang bấm số, hoặc lộ trình mà ai đó đang mách cho ta. Nó cũng giúp ta nắm bắt ý nghĩa của câu – não tự động lưu vế đầu của một câu dài trong trí nhớ thao tác để có sẵn thông tin mà xử lý khi ta nghe đến cuối câu. Trí nhớ thao tác có thể lưu trữ hình ảnh cũng như từ ngữ và số. Các họa sĩ không ngừng sử dụng trí nhớ thao tác để lưu giữ hình ảnh cho đến khi chuyển tải chúng sang phương tiện mà họ đang dùng để biểu đạt.
Trí nhớ thao tác không mạnh lắm: Nó không thể lưu được nhiều thông tin, và thông tin thường chỉ khu trú trên “bàn làm việc” một thời gian ngắn. Để được lưu giữ lại một cách lâu dài hơn, ký ức phải được chuyển đến một vùng khác của não bộ và kết nối với mạng lưới các liên tưởng ký ức có được bởi trải nghiệm và quá trình học tập trước đó. Đây là trí nhớ “dài hạn”. Nó bao gồm hàng triệu triệu sự kết nối các tế bào não, nhằm mã hóa mọi thứ, từ mùi thơm của keo ta dùng ở trường mẫu giáo cho đến gương mặt của người yêu, cho đến trí nhớ của cơ bắp khi chạy xe đạp. Trí nhớ dài hạn quả thật là một thuật ngữ gây nhầm lẫn vì nó hàm ý một vùng lưu trữ duy nhất trong não. Thật ra, trí nhớ dài hạn được phân bố trong khắp não. Đây không những là một hệ thống rất hiệu quả đối với não bộ (chẳng hạn ký ức hình ảnh được lưu ở các vùng cảm nhận thị giác), mà còn giúp não không bị mất trí nhớ toàn diện. Nếu tất cả “trứng” trí nhớ của ta đều được cất trong một giỏ duy nhất, một cơn đột quỵ, một cú đập đầu hoặc tổn thương có thể phá hủy tất cả. Bằng cách phân bố trí nhớ, ta có thể mất đi một số trí nhớ dạng này nhưng vẫn giữ được những dạng khác.
Trí nhớ dài hạn có hai loại chính: tường thuật và quy trình. Giống như tên gọi, trí nhớ quy trình là nơi ta lưu trữ thông tin về “cách thức”. Chủ yếu đây là một loại trí nhớ phi ngôn từ và được trải nghiệm dưới dạng “trí nhớ cơ thể” khi chúng ta đi xe đạp, nện một quả bóng rổ, chơi một nhạc cụ hoặc lái xe.
Ký ức tường thuật có thể được khơi gợi một cách có ý thức và “được đề cập” bằng ngôn từ hoặc hình vẽ. Một số ký ức tường thuật, được gọi là trí nhớ ngữ nghĩa, là thông tin về thế giới: tên các sự vật, số liệu thống kê thể thao, công thức toán học, chữ trong bảng chữ cái... với danh sách gần như vô tận. Có những ký ức tường thuật khác giàu hình ảnh hơn và miêu tả quang cảnh trong trải nghiệm của ta, với một nơi chốn cụ thể ở một thời điểm cụ thể: nơi ta đang hiện diện khi nghe tin về vụ khủng bố 11/9/2001, hình ảnh trường phổ thông của ta, và màu sắc của chiếc váy dự lễ tốt nghiệp. Trí nhớ tường thuật “theo tình tiết” này cũng phong phú đến mức không ngờ. Mặc dù ký ức không bao giờ chi tiết như thực tại hiện hữu, sức chứa ký ức cuộc sống của chúng ta là vô cùng lớn. Quả thật nó lớn hơn ta nghĩ vì nó được kiến tạo bởi những mạng đồ sộ liên kết với nhau. Hầu hết mọi người đều từng có kinh nghiệm đột nhiên nhớ lại một quang cảnh trước giờ vẫn bị lãng quên trong quá khứ, được kích hoạt bởi mùi, âm thanh hoặc hình ảnh.
Nhưng điều quan trọng phải hiểu là não bộ không lưu trữ hồ sơ cuộc đời ta theo dạng ảnh chụp để ta truy cập theo ý muốn. Cách đó sẽ là một gánh nặng ngay cả với năng lực phi thường của não và sẽ lấp đầy đầu óc ta một lượng lớn thông tin vô ích. Ta chỉ nhớ những gì nổi bật, những gì khác thường, có ý nghĩa với bản thân, bất ngờ hoặc những gì ta cố ý ghi nhớ. Hầu hết dòng ý thức của chúng ta – những khía cạnh của thế giới bên ngoài hoặc bên trong mà ta chú ý đến – đều đi qua não của chúng ta mà không được giữ lại.
Sự hiểu biết tường tận về trí nhớ có thể giúp ta vận dụng nó tốt hơn. Ví dụ, vì trí nhớ là hiện tượng liên tưởng, ta dễ truy xuất hơn các chi tiết cụ thể nào gắn kết với những gì mà ta đã biết. Chẳng hạn, tên của một người thường được gắn với các chi tiết khác về người đó, như khuôn mặt, nghề nghiệp của họ và nơi ta thường gặp họ. Nếu quên tên của một ai đó, đôi khi ta có thể gợi nhớ lại bằng cách “cù” vào các mạng lưới thần kinh nào kết nối với mạng lưới biểu thị cho cái tên, bằng cách tập trung vào các thông tin liên quan. Chẳng hạn, khi đang cố gắng nhớ tên của một người bạn; ta có thể hình dung con cái của cô ta, nơi cô ta làm việc, hoặc lần cuối ta gặp cô ấy, mà tất cả đều kích hoạt các mạng lưới thần kinh miêu tả người bạn này, gồm cả tên của cô ta, để rồi nó thường sẽ bật ra sau một vài khoảnh khắc. Những ký ức nào được tích hợp chặt chẽ vào bối cảnh của những ký ức khác sẽ thường đề kháng lại sự suy thoái tốt hơn so với những ký ức không kết nối với những ký ức khác.
Trí nhớ là một hiện tượng không ngơi hấp dẫn và là trọng tâm nghiên cứu hiện nay. Một số nghiên cứu gần đây, chẳng hạn, đã phát hiện rằng mặc dù trí nhớ thao tác và trí nhớ tường thuật theo dạng tình tiết có thể suy giảm theo thời gian, ký ức về ngữ nghĩa và ký ức về quy trình khá ổn định. Thường các loại ký ức này thậm chí đề kháng được cả sự tàn phá của bệnh Alzheimer. Tuy nhiên, về cơ bản, năng lực học tập không bao giờ chết đi và nhiều nghiên cứu cho thấy năng lực truy xuất và thao tác trí nhớ hiện hữu cũng như năng lực nạp ký ức mới của ta có thể cải thiện bằng cách luyện tập trí óc. Ta có thể vận dụng các phương pháp đơn giản, chẳng hạn như ghi chép nhanh ra giấy bằng bút chì với sổ tay, hoặc sử dụng các thủ thuật ghi nhớ để bổ trợ cho trí nhớ thao tác vốn dễ bị lãng quên.
Nhiều người cao tuổi, nhất là những người trong giai đoạn đúc kết, có thể tăng cường trí nhớ bằng cách tổ chức, thu thập và ráp nối tư liệu hình ảnh và văn tự về cuộc đời của họ. Ký ức có thể được thu nạp bằng nhiều cách – hồi ký, sổ lưu niệm gia đình, hồ sơ phả hệ, album ảnh hoặc, như đang ngày càng phổ biến, các bộ sưu tập kỹ thuật số gồm hình ảnh, văn bản và thậm chí cả bản ghi âm thanh hoặc video. Cha tôi, Ben Cohen, đã dùng sổ tay gia đình.
Có lần tôi đến thăm và trò chuyện với cha tôi khi ông 77 tuổi. Ông đã đọc về công trình của tôi sáng hôm đó trên tờ Boston Globe. Ông nháy mắt hỏi tôi, “Con có biết bố cũng đã từng được đăng trên tờ Globe không?”.
Tôi ngạc nhiên và bảo rằng ước gì tôi được đọc bài báo đó. “Được thôi”, ông đáp và lôi ra một cuốn sổ lưu niệm mà tôi không hề biết. Hóa ra ông vừa mới thu thập xong các bản ghi chép, những mẩu tin và hình ảnh về cuộc đời mình. Bố con tôi lướt qua cuốn sổ đến một trang quảng cáo trên Globe ngày 31/12/1933. Ảnh một chàng binh sĩ hải quân bảnh bao được đăng dưới tiêu đề “Hải quân lại tuyển mộ các tân binh muốn có sự nghiệp”. Dưới bức ảnh là chú thích “Johnny Haultight”, nhưng thật ra đó là cha tôi, khi ấy đang tại ngũ trong hải quân và đóng vai tân binh cho chiến dịch tuyển quân của hải quân.
Sổ tay của cha tôi lại càng trở nên quan trọng hơn nữa vài năm sau đó, khi ông bắt đầu có triệu chứng mắc bệnh Alzheimer. Cuốn sổ lưu niệm đã cung cấp cả một kho tàng dữ liệu để giúp ông gắn kết lại trí nhớ đang lung lay.
Trí thông minh hoạt lưu và trí thông minh kết tinh
Nói đến các chế độ nhớ khác nhau, ta cần nắm các khái niệm quan trọng về trí thông minh hoạt lưu và trí thông minh kết tinh. Trí thông minh hoạt lưu là năng lực lý luận tại chỗ – một sự nhanh nhạy về trí óc mà không phụ thuộc hoàn toàn vào quá trình học hỏi trước đó. Dạng này đòi hỏi tốc độ phân tích thông tin cũng như sự chú tâm và dung lượng trí nhớ. Đây là loại trí thông minh bẩm sinh mà bài kiểm tra IQ thường đo đạc (nhưng không phải lúc nào cũng hiệu quả). Trí thông minh kết tinh, ngược lại, là thông tin và từ vựng được tích lũy từ nhà trường và cuộc sống hằng ngày. Dạng này bao gồm cả việc ứng dụng các kỹ năng và kiến thức để giải quyết vấn đề.
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy trí thông minh hoạt lưu suy thoái chậm rãi theo tuổi tác, trong khi trí thông minh kết tinh thường cải thiện hoặc khuếch trương. Nhiều người vẫn tiếp tục tích lũy thêm vốn chuyên môn và kỹ năng trong các lĩnh vực cụ thể đến suốt đời. Sử gia vĩ đại Arnold Toynbee, vào lúc 77 tuổi, đã đề cập đến trí thông minh kết tinh trong lời nhận xét: “Phần thưởng dành cho tôi khi đạt đến độ tuổi hiện tại là nó đã cho tôi thêm thời gian để thực hiện vượt quá toàn bộ kế hoạch làm việc ban đầu; và công việc của một nhà sử học là loại công việc mà thời gian là một điều kiện cần thiết để đạt thành tựu”.
Những bài học từ các bậc cao niên kì cựu nhất
Tôi muốn kết thúc chương này bằng cách suy ngẫm về một trong những bậc cao niên đáng chú ý nhất của thế kỷ 20: bà Jeanne Louise Calment. Bà Calment sinh tại Pháp năm 1875 và sống đến 122 tuổi, trở thành người lớn tuổi nhất mà chúng ta có tư liệu rõ ràng. Bà cũng là minh chứng cho thấy sự suy giảm nhận thức không phải là điều tất yếu và sự uyên bác là thành quả quý giá của tuổi tác. Trí óc của bà vẫn sắc sảo cho đến cuối đời, mặc dù đến khoảng 115 tuổi thì thị lực, thính lực và khả năng đi lại của bà giảm sút nhanh chóng. Giới truyền thông Pháp thường gọi bà là “bậc kì cựu của nhân loại”, và trong suốt những năm 1980 và 1990, bà thường xuyên được báo chí đưa tin (bà qua đời ngày 4/8/1997). Sự sắc sảo và óc hài hước thâm thúy khiến bà luôn nổi tiếng. Một lần, khi được hỏi về tác động của tuổi tác, bà đã châm biếm, “Tôi chỉ có mỗi một nếp nhăn mà tôi đang ngồi lên đây”.
Bà ăn uống mọi thứ theo sở thích – duy trì đến cuối đời thói quen uống rượu vang hằng ngày, mặc dù đến lúc ấy đã giảm khẩu phần sô-cô-la xuống so với mức gần một cân mỗi tuần trước đó. Ta có thể thấy nét duyên của bà qua những câu nói được lượm lặt lại sau đây, mà tất cả đều được trích từ các cuộc phỏng vấn sau sinh nhật thứ 110 của bà:
“Tôi là một phụ nữ bình thường.”
“Tôi can đảm, và tôi chẳng e sợ gì cả.”
“Tôi vui thú mỗi khi có thể. Tôi hành động minh bạch, hợp đạo đức và không hối tiếc. Tôi rất may mắn.”
“Rượu, tôi yêu nó.”
“Tôi có một cái dạ dày như của đà điểu.”
“Tôi mơ, tôi nghĩ, tôi chấp nhận cuộc đời... Tôi không bao giờ cảm thấy buồn chán.”
Ở tuổi 90, bà đã ký hợp đồng để bán căn hộ của mình theo hình thức niên kim trọn đời cho luật sư François Raffray, khi ấy 47 tuổi. (Đây một hình thức trả góp phổ biến ở Pháp mà người bán vẫn được ở lại nhà cho đến khi qua đời thì người mua mới nhận nhà – ND). Tại Hoa Kỳ, cách này được gọi là “thế chấp đối lưu niên kim”. Raffray đã đồng ý trả một khoản tiền hằng tháng cho đến khi bà qua đời. Lúc đó, căn hộ trị giá 10 năm thanh toán. Thật không may cho Raffray, Calment không những còn sống đến 30 năm sau, mà ông mới là người chết trước, thọ 77 tuổi. Vợ ông đã phải tiếp tục thanh toán. Trong những năm cuối đời, Calment sống chủ yếu từ nguồn thu nhập này.
Trong khi đó, bà tập đánh kiếm và vẫn đi xe đạp ở tuổi 100. Năm 115 tuổi, có người đến dự tiệc sinh nhật của bà và nói, “Hẹn năm sau nữa nhé”, bà bèn đáp, “Tại sao lại không nhỉ? Tôi thấy ông cũng đâu có quá tệ”.
Ở tuổi 120, bà bỏ hút thuốc, và bác sĩ cho biết bà kiêng khem bởi tự cao chứ không bởi sức khỏe – thị lực của bà kém đến mức không thể tự châm thuốc một cách an toàn, và bà ghét nhờ người khác làm giùm. Ở tuổi 121, như một khúc encore trong đời, bà đã thu âm một đĩa CD với tựa đề Time Mistress (Mệnh phụ thời gian) để hồi tưởng và tự thuật cuộc đời mình trên nền nhạc đệm.
Ít người trong chúng ta thọ đến 120 tuổi, nhưng tôi nghĩ tất cả chúng ta đều muốn có được niềm vui sống như của Madame Calment. Thái độ của bà trái ngược hẳn với các phim hoạt hình, những huyền thoại và ngộ nhận tràn lan trong nền văn hóa của chúng ta ngày nay.