3

NỬA ĐỜI VỀ SAU:
GIAI ĐOẠN I VÀ II

Cách tốt nhất để dự đoán tương lai là tạo dựng nó.

• Peter Drucker

Tâm lý học, như ta đã thấy, đã đánh giá thấp, một cách tệ hại, tiềm năng tích cực của nửa đời sau. Giờ đây chúng ta biết rằng não bộ con người có thể học ở mọi lứa tuổi và có cách tự tái định hình để khiến cho não bộ lớn tuổi trở nên hữu hiệu hơn não bộ trẻ tuổi. Sự phát triển tâm lý, xã hội, trí tuệ và cảm xúc của chúng ta cũng không bao giờ dừng lại. Thật vậy, các lực mà tôi mô tả là Động lực Nội tâm tiếp tục không ngừng thúc đẩy trí thông minh tiến hóa đi qua một loạt các giai đoạn chuyển biến quan trọng trong đời.

Sau khi nói chuyện với hàng ngàn người lớn tuổi, tôi đã hình thành một quan điểm mới – đầy khích lệ – về nửa đời sau. Từ điểm dừng của Erikson, tôi đã đi tiếp và chia “thời kỳ trưởng thành” rất dài của ông thành bốn giai đoạn phát triển và tiến hóa. Chương này tìm hiểu về hai giai đoạn đầu, nhưng trước tiên tôi sẽ cho bạn một cái nhìn tổng thể bằng cách nêu ra cả bốn giai đoạn.

Mỗi giai đoạn được gọi tên theo ba yếu tố nhận diện chính thức cũng như một tiêu đề ngắn, và độ tuổi đặc trưng thường diễn ra.

Giai đoạn I: Tái đánh giá, khám phá và chuyển tiếp (tái đánh giá ở tuổi trung niên); giữa độ tuổi 30 đến giữa độ tuổi 60, nhưng thường rơi vào đầu độ tuổi 40 đến cuối độ tuổi 50.

• Con người trong giai đoạn này lần đầu tiên đối mặt một cách nghiêm túc với cảm giác về cái chết.

• Những sự trù tính và hành động xuất phát từ sự tìm kiếm ý nghĩa hoặc, đôi khi, từ sự khủng hoảng.

• Những biến đổi của não bộ trong giai đoạn này thúc đẩy trí thông minh tiến hóa, vốn là cơ sở cho sự uyên bác.

Giai đoạn II: Khai phóng, thử nghiệm và cải cách (khai phóng); giữa độ tuổi 50 đến giữa độ tuổi 70, nhưng thường diễn ra ở cuối độ tuổi 50 đến đầu độ tuổi 70.

• Trong giai đoạn này người ta thường có cảm giác “nếu không phải lúc này thì lúc nào?”, mà sẽ nuôi dưỡng ý thức mới về sự giải phóng nội tâm.

• Những sự trù tính và hành động được định hình bởi ý thức tự do cá nhân chớm có, muốn bày tỏ ý nghĩ của bản thân và hành động theo nhu cầu của bản thân.

• Sự hình thành tế bào thần kinh mới ở vùng não xử lý thông tin có liên quan đến ước muốn về cái mới.

• Việc nghỉ hưu hoặc nghỉ hưu một phần khiến người ta có thời gian để thử nghiệm những trải nghiệm mới.

Giai đoạn III: Đúc kết, giải quyết và đóng góp (từ những sự đúc kết); độ tuổi cuối 60 đến 90, nhưng thường diễn ra từ cuối độ tuổi 60 đến độ tuổi 80.

• Con người có động lực chia sẻ sự uyên bác của mình.

• Những sự trù tính và hành động được định hình bởi ước muốn phát hiện ý nghĩa cuộc đời khi ta nhìn lại, ôn lại và đúc kết.

• Sự vận dụng hai vùng hồi hải mã giúp ta có năng lực trình bày tự truyện.

• Con người trong giai đoạn này thường cảm thấy bị thôi thúc phải can dự vào những việc chưa hoàn thành hoặc những xung đột chưa được giải quyết.

Giai đoạn IV: Tiếp bước, chiêm nghiệm và tôn vinh (encore); cuối độ tuổi 70 đến cuối đời.

• Những sự trù tính và hành động được định hình bởi ước muốn tái khẳng định và tái xác định các luận điểm chính trong đời, nhưng cũng nhằm khám phá những biến thể mới của các luận điểm ấy.

• Những biến đổi tiếp theo của amiđan làm gia tăng cảm xúc và tinh thần tích cực.

• Ước muốn sống tốt cho đến cuối cùng gieo một tác động tích cực đối với gia đình và cộng đồng.

Như bạn thấy, các giai đoạn này có thể chồng hẳn lên nhau, và người ta có thể đi qua với vận tốc khác nhau. Chẳng hạn, một số người phải đối mặt với cái chết lúc trẻ, do cha mẹ hoặc người thân mất sớm, do tai nạn hoặc bệnh tật suýt chết. Những người ấy có thể trải nghiệm một số hoặc tất cả các thuộc tính của giai đoạn tái đánh giá đời sống vốn thường xảy ra ở người lớn tuổi hơn. Đời sống thực tế – và con người thực tế – luôn phức tạp hơn các cấu trúc gọn gàng trong sách. Nhưng bàn về các giai đoạn này một cách riêng rẽ là điều hữu ích vì nó cho phép ta xem xét cặn kẽ hơn để hiểu được các sắc thái và thuộc tính của chúng. Bốn giai đoạn tôi đưa ra cũng giống như bất kỳ mô hình nào khác trong khoa học: Một sự đơn giản hóa để ta dễ dàng nắm bắt chính xác về thực tại. Ví dụ, DNA chẳng phải hình xoắn ốc gọn gàng như miêu tả trong sách giáo khoa – thật ra nó khá lộn xộn, và các sợi này cuộn, xoắn, tách và tương tác với nhau một cách rối rắm. Nhưng mô hình đơn giản giúp ta hiểu rõ hơn về nền tảng cực kỳ quan trọng này của con người.

Khi tôi trình bày cái nhìn của mình về bốn giai đoạn ở các hội nghị, người ta bảo tôi rằng họ thấy các giai đoạn này phản ánh trong cuộc đời của chính họ hoặc của người thân hay bạn bè của họ, và rằng lý thuyết này giúp làm sáng tỏ những chuỗi phát triển khác nhau trong nửa đời sau. Khi đọc về các giai đoạn này, bạn có thể có cảm giác tương tự, hoặc có thể thấy trải nghiệm của mình không hoàn toàn khớp với những gì tôi mô tả. Đó là điều bình thường. Mỗi chúng ta đều độc nhất vô nhị và không có khuôn mẫu nào khớp với tất cả mọi người. Nhưng những chuỗi phát triển này là phổ quát. Và chúng hàm chứa tiềm năng làm cho tuổi cao niên không phải là quãng thời gian ngưng trệ hoặc suy thoái mà là quãng đời năng động để phát triển, học tập và viên mãn một cách sâu sắc.

Bước chuyển tiếp của riêng tôi

Tôi đã ngạc nhiên khi lần đầu tiên một đồng nghiệp nhẹ nhàng hỏi rằng liệu tôi có đang trải qua một dạng khủng hoảng tuổi trung niên. Tôi bối rối vì chẳng cảm thấy chút gì “đang bị khủng hoảng”. Thay vào đó, tôi cảm thấy được thách đố, truyền lực và nắm bắt các khía cạnh mới của bản thân. Trong mấy năm sau đó, lại thêm nhiều đồng nghiệp, mà một số hơi ái ngại, một số thì hài hước, tiếp tục đưa ra chẩn đoán tương tự: Khủng hoảng tuổi trung niên. Tất cả đều là phản ứng của họ trước sở thích mới của tôi – thiết kế bàn cờ giải trí cho người lớn tuổi.

Tôi còn nhớ một câu hỏi láu lỉnh từ một người bạn, “Anh đang qua bên phải đúng không?”. Ở Washington, D.C., “bên phải” có nghĩa là theo phe “Cộng hòa”. Nhưng bạn tôi là một nhà thần kinh học, và thật ra anh đang đề cập đến não phải. Ý anh là tôi đã đánh đổi năng lực lập luận và phân tích để lấy những năng lực mơ hồ hơn, sáng tạo hơn và kém kỷ luật hơn mà thường được xem như sở trường của não phải.

Dĩ nhiên, sự thật không quá đơn giản như lời nhận xét của bạn tôi. Tôi đã ở cuối độ tuổi tứ tuần, và đã trở thành một nhà sáng chế cờ, nhưng tôi không bỏ ngành lão khoa. Và tôi cũng không đánh đổi phần não bên này để lấy bên kia. Thay vào đó, tôi đang đáp lại Động lực Nội tâm bằng cách tự tạo điều kiện để bản thân tận dụng cả hai bán cầu não lẫn trí thông minh tiến hóa đang chớm nở. Các bộ cờ tôi thiết kế, trong ba năm cuối của 20 năm làm việc tại Viện Y tế Quốc gia (NIH), đã dựa trên các bài học từ lão khoa và thúc đẩy sự giao lưu giải trí giữa các thế hệ. Trong cùng thời gian ấy, tôi đã trở thành chủ tịch của Hội Lão khoa Hoa Kỳ và thành lập một trung tâm nghiên cứu sáng tạo tại Đại học George Washington – Trung tâm về Lão hóa, Sức khỏe & Nhân đạo. Nhưng các phát minh cờ của tôi tạo ra tiếng vang mà, theo lời bạn bè, cho thấy một con người hoàn toàn mới hoặc một sự đáp lại “khủng hoảng tuổi trung niên”.

Tôi bị thôi thúc dấn bước vào việc thiết kế cờ một phần do phải đối đầu với tử thần. Hai năm trước khi rời NIH, tôi đã được chẩn đoán bị xơ cứng teo cơ một bên (ALS), thường gọi là bệnh Lou Gehrig. ALS là căn bệnh tiến triển theo thời gian và đến nay chưa thể điều trị, dần dần lấy mất của người bệnh khả năng tự kiểm soát cơ thể. Đó là một chẩn đoán rất ảm đạm. Ban đêm tôi ngủ không ngon giấc và ban ngày không tập trung được. Nhưng tôi không ngã lòng – mà bên trong chỉ nao nao một cách u ám. Trước đó tôi luôn mơ tưởng về việc chế tạo cờ, và với bản án treo trên đầu từ căn bệnh đang rút rỉa sự sống, tôi nghĩ hoặc bây giờ hoặc không bao giờ.

Tôi hợp tác với một đồng nghiệp họa sĩ đầy tài năng, Gretchen Raber, và bộ cờ đầu tiên của tôi đã lọt vào chung kết một chương trình quốc tế về cờ dưới dạng tác phẩm nghệ thuật. Trong lúc tôi vừa dốc sức thiết kế bộ cờ thứ hai, vừa theo đuổi công việc trong lão khoa thì bác sĩ gọi điện báo một tin sửng sốt: Tôi bị chẩn đoán nhầm. Triệu chứng của tôi không phải do bệnh ALS. Một vị tổng lãnh thiên thần nào đó như trong truyện của Dickens ắt đã ghé thăm để nhắc tôi phải theo đuổi hướng đi mới và đánh thức phần sáng tạo bên trong mà trước đó tôi chểnh mảng.

Tôi suy tư về sự tương đồng giữa những gì tôi trải qua trước đó và sự tái đánh giá cuộc sống mà tôi đã nghe từ nhiều người tham gia cuộc nghiên cứu của tôi. Tôi bắt đầu nghĩ về các giai đoạn chuyển biến cuộc sống đã chứng kiến ở nhiều bệnh nhân, các đối tượng nghiên cứu, bạn bè và người quen, và những cuộc chuyển biến ấy thường bị chế nhạo, gạt bỏ và xem thường ra sao. Cuộc chuyển biến của tôi đã bị bạn bè quy là “khủng hoảng”, mặc dù chẳng liên quan gì; mà ngược lại, cái mác này dường như mang lại nét ngộ nghĩnh cho một giai đoạn đời có ý nghĩa sâu sắc và quan trọng của tôi.

Càng nghĩ về những điều này, tôi càng nhận ra sự hiểu biết của chúng ta về quá trình phát triển ở nửa đời sau là vô cùng thiếu sót. Đó là lúc tôi bắt đầu manh nha các ý tưởng để hình thành cuốn sách này. Tôi muốn giúp những người khác trải qua các giai đoạn về sau trong đời được thư thái hơn, ít sợ hãi hơn và biết nắm bắt được cơ hội khi có điều kiện. Tôi muốn giúp chúng ta vượt qua những suy nghĩ lệch lạc và ngộ nhận đã làm xói mòn ý chí năng động cá nhân để trở nên hiểu biết hơn về cơ chế tâm sinh lý, cho phép chúng ta tạo dựng định mệnh của chính mình. Sau khi nghiên cứu người trưởng thành ở mọi lứa tuổi, tôi đã thấy rằng sự hiểu biết các cơ chế và nhận thức đúng thực tại có thể thúc đẩy mọi người phát triển tích cực.

Giai đoạn I: Tái đánh giá ở tuổi trung niên

Tuổi trung niên là thời điểm lần đầu tiên hầu hết chúng ta cân nhắc cái chết của chính mình một cách nghiêm túc. Lần đầu tiên ta bắt đầu nghĩ xem mình còn được bao nhiêu năm nữa thay vì đã đi qua bao nhiêu năm. Ý niệm về cái chết của chính mình tác động sâu xa hơn ý nghĩ chung chung rằng: Dĩ nhiên, ai rồi cũng sẽ chết. Nhận thức mới sâu sắc này làm dấy lên những câu hỏi kinh điển: “Tôi là ai?”, “Lâu nay tôi ở đâu?”, “Tôi đang đi về đâu?”.

Nhận thức này tác động đến chúng ta sâu xa đến đâu còn phụ thuộc nhiều vào niềm tin của ta về cái chết và mức độ ta chấp nhận nó. Tôi đã thấy những người thông minh, nhận thức tốt, có thể dễ dàng nói về cái chết và không sợ chết, thế mà lại có lúc bị viễn cảnh về cái chết của bản thân khiến họ xúc động mạnh mẽ hơn cả những gì trí óc họ vẫn từng hiểu biết. Đối với nhiều người, viễn cảnh về cái chết thực sự là đáng sợ – rất đáng sợ, đến mức họ tránh hẳn suy nghĩ nhiều về nó. Một số người được an ủi bằng niềm tin vào một thế giới bên kia, như luân hồi hoặc một dạng đời sống sau khi chết. Quả thật, sự phong phú của những niềm tin về cái chết và cách con người tránh né hoặc chối bỏ thực tại về cái chết là lời tuyên ngôn hùng hồn về tầm quan trọng của nó trong đời sống chúng ta. Nghiên cứu về lão hóa đã phát hiện ra rằng sự đối mặt với cái chết, cùng với các quá trình chuyển biến thể chất và cảm xúc khác ở tuổi trung niên, có thể gây cảm giác ăn năn hoặc lo âu sâu sắc. Ta có thể thấy ý thức hiện sinh này vang vọng trong nghệ thuật, âm nhạc và văn học ở mọi lứa tuổi. “Giữa đầu óc và bàn tay tôi, luôn luôn có gương mặt tử thần”, Francis Picabia (1879–1953), họa sĩ và thi sĩ người Pháp đã viết ở tuổi 44.

Cảm giác bất an về cái chết chung cuộc của bản thân đôi khi khiến cơ thể có các triệu chứng như bồn chồn, cáu kỉnh, lo sợ, mẫn cảm, căng cơ, mệt mỏi, mất ngủ và trầm cảm. Cảm giác lo lắng không dứt làm tăng nguy cơ mắc phải chứng lo âu hoặc trầm cảm lâm sàng. Nhưng thường thì sự nhận thức rằng tuổi thọ là hữu hạn, bất kể niềm tin về những gì xảy ra sau khi chết, luôn tạo ra một chuỗi Động lực Nội tâm mạnh mẽ. Việc đối mặt trực diện với cái chết có thể khiến ta đánh giá lại các mối ưu tiên và mục tiêu của mình. Nó cũng có thể vun đắp một nhân sinh quan rộng mở hơn, khiến cho những ưu phiền, sự cố và ức chế hằng ngày trở nên bớt tác động về mặt cảm xúc.

Không phải ngẫu nhiên mà một trong những bài thực hành cơ bản của Thiền tông Phật giáo là “thiền về cái chết”. Bằng chín điểm cụ thể, thiền sinh buộc phải quán tưởng cái chết của mình và thời gian chết là không thể đoán trước. Bài thiền cũng yêu cầu hành giả phải suy nghiệm những gì sẽ giúp họ khi cái chết xảy đến. Mặc dù bài thiền này có thể lạ thường với người phương Tây, Thiền tông xem nó như một cách tự nhiên và hiệu quả để quán tưởng sự quý báu của cuộc sống và các khía cạnh đời sống mang lại an lạc và ý nghĩa đích thực.

Nhận thức về cái chết, dĩ nhiên, không phải là đặc điểm nổi bật duy nhất của đoạn đời này. Sự tái đánh giá có thể được kích hoạt bởi các thay đổi khác trong cuộc sống: Sự ra riêng của con cái trong gia đình, trải nghiệm tai nạn, bệnh tật, hoặc (như ví dụ của tôi) một chẩn đoán bệnh tật nghiêm trọng. Quá trình tái đánh giá thường khiến ta có cảm giác như đang khởi đầu một cuộc hành trình mà, quả nhiên, có thể đúng là như vậy.

Câu chuyện của Alex Haley

Alex Haley, trạc gần 40, trở nên gắt gỏng lẫn bồn chồn – anh bức xúc nhưng không biết về điều gì. Anh gia nhập lực lượng Tuần duyên năm 17 tuổi và tại ngũ ở bộ phận quan hệ công chúng, phụ trách viết lách. Nhưng anh không muốn cả đời ngồi viết thông cáo báo chí. Sau 20 năm tại ngũ, bị thôi thúc bởi một Động lực Nội tâm muốn hành động nhiều hơn, anh đã xin nghỉ.

“Tôi không muốn làm một kẻ đến chết vẫn cứ tự hỏi: Điều gì xảy ra nếu…?”, anh bộc bạch trong một cuộc phỏng vấn đã được đăng tải. “Tôi sẽ tiếp tục thử nghiệm những ước mơ của mình – dù phải sống trong bất an và nỗi sợ thất bại”.

Anh mạnh dạn theo đuổi sự nghiệp viết lách tự do, viết bài cho Reader’s DigestPlayboy, và với việc xuất bản cuốn Tự truyện của Malcolm X (The Autobiography of Malcolm X) mà anh là đồng tác giả, sự nghiệp của anh đã cất cánh. Tuy nhiên, anh vẫn cảm thấy bị thôi thúc phải làm điều gì khác nữa.

Năm 1965, ở tuổi 44, Haley chợt nhìn thấy tên ông bà cố ngoại của mình khi tra cứu hồ sơ hậu-Nội chiến tại Văn khố Quốc gia ở Washington, D.C. Sự kiện này đã khởi đầu cuộc phiêu lưu suốt 11 năm nghiên cứu để viết về gia tộc của mình, mà đỉnh cao là sự ra đời của cuốn Cội rễ (Roots) khi Haley 55 tuổi. Cuốn sách trở thành tựa bán chạy nhất và sau đó được chuyển thể thành loạt phim truyền hình khuấy động sự quan tâm trên toàn quốc về lịch sử của người da đen.

“Tất cả chúng ta đều có một sự khát khao, sâu trong xương tủy, muốn biết về di sản mà mình kế thừa – muốn biết ta là ai và từ đâu đến”, ông nói. “Nếu không có kiến ​​thức vun đắp này, sẽ còn mãi một sự khát khao. Bất kể ta đạt được thành tựu gì trong cuộc sống, vẫn luôn có một khoảng trống, sự thiếu vắng và nỗi cô đơn trăn trở đến tột cùng”.

Ngộ nhận về khủng hoảng tuổi trung niên

Như tôi đã nói trước đây, thật sai lầm khi quan niệm rằng tất cả mọi người đều đi qua một “cuộc khủng hoảng tuổi trung niên”. Thay vào đó, tôi thấy hầu hết mọi người ở tuổi trung niên đều trải nghiệm một ý thức tìm kiếm. Những suy tư sâu sắc phổ biến trong giai đoạn này có thể khích động một ước muốn mạnh mẽ phải tìm được ý nghĩa cuộc sống, để bắt đầu công việc mới, hoặc để làm công việc hiện tại theo hướng mới. Cuộc nghiên cứu dài cả thập niên Phát triển Thành công Tuổi trung niên của Quỹ Nghiên cứu MacArthur, lẫn cuộc nghiên cứu tiếp nối của tôi về những người ở tuổi hưu niên, đều cho thấy số người trải nghiệm cái gọi là “khủng hoảng tuổi trung niên” ít hơn nhiều so với con số từng được báo cáo. Thay vì dẫn đến khủng hoảng, sự tái đánh giá ở tuổi trung niên thường dẫn đến ý thức khám phá cá nhân.

“Tôi mong được theo đuổi nghề nghiệp mình vẫn ước muốn”, một phụ nữ 49 tuổi nói với tôi. “Tôi mệt mỏi phải làm việc cho tương lai của người khác, thay vì cho riêng tôi, cho dù tôi phải khởi sự ở quy mô nhỏ hơn”. Một người đàn ông ở tuổi ngũ tuần, lần đầu tiên tham gia dự án tình nguyện lớn, chia sẻ, “Anh biết đó, tôi vẫn nghĩ rằng cách duy nhất để mang lại ý nghĩa là tự làm công việc của mình. Nhưng tham gia cộng đồng cũng là một con đường hiệu quả không kém”.

Một lý do khiến xuất hiện khái niệm “khủng hoảng tuổi trung niên” là do vào thời phân tâm học chưa được ứng dụng rộng rãi, chỉ đến tuổi trung niên người ta mới chịu tham vấn tâm lý khi bị suy sụp cảm xúc, thường sau nhiều năm vật vã về cảm xúc hoặc thất bại trong các mối quan hệ. Lứa tuổi trung niên không nhất thiết gây ra khủng hoảng, mà chính đầu óc tuổi trung niên đang mách bảo người ta hãy hành động để giải quyết. Và khi họ hành động, nỗ lực của họ đã bị hiểu sai thành khủng hoảng.

Có thể thấy sự tương phản trong quan niệm về tuổi trung niên – như một cuộc tìm kiếm hay như một cuộc khủng hoảng – bằng cách nhìn vào tác động của nó đối với một số khía cạnh quan trọng của đời sống. Trong khủng hoảng, chẳng hạn, ta xáo trộn suy nghĩ và khó tập trung. Còn trong tìm kiếm, ta có thể tập trung suy nghĩ cao độ để khám phá bản chất của vấn đề hoặc tìm giải pháp. Cảm xúc cũng vậy. Trong khủng hoảng, người ta thường bị trầm cảm và cảm xúc thì bất ổn. Trong tìm kiếm, cảm xúc có thể vẫn dao động, nhưng không mất kiểm soát, và người ta cảm thấy được khích lệ và thôi thúc giải quyết mọi khó khăn.

Dĩ nhiên, đôi khi cuộc sống giáng cho ta một vấn đề thật sự nghiêm trọng. Những biến cố như ly hôn, trọng bệnh, bạn đời hoặc người thân ra đi, hoặc bản thân đột ngột thất nghiệp, đều có thể ném ta vào vòng khủng hoảng. Những lúc như thế, tư vấn tâm lý, lời khuyên của gia đình và bạn bè có thể giúp ta kiểm soát suy nghĩ, cảm xúc và hành vi. Ta có thể dần dần khôi phục lại trạng thái cân bằng, trở lại trạng thái tìm kiếm, và vận dụng trí thông minh tiến hóa để tái khám phá con đường của mình trong cuộc sống. Những cuộc khủng hoảng như thế xảy ra ở mọi lứa tuổi, và tuổi trung niên không nhất thiết sẽ gặp nhiều hơn so với các lứa tuổi khác. Sai lầm nằm ở chỗ không phải khủng hoảng không xảy ra ở tuổi trung niên, mà ở chỗ đinh ninh khủng hoảng sẽ xảy đến ​​ở tuổi trung niên, hoặc nhất thiết phải có khủng hoảng để đi qua quãng đời này.

Phẩm chất tích cực của tuổi trung niên

Nghiên cứu cho thấy sự tái đánh giá ở tuổi trung niên thường là kết quả của một loạt các bước nhỏ và sự thức tỉnh dần dà để làm nảy sinh những phẩm chất tích cực sau:

Ít phản ứng bốc đồng với các tình huống và con người trong cuộc sống hằng ngày. “Ở tuổi 20, tôi nghĩ gì nói nấy” là lời chia sẻ của một phụ nữ 48 tuổi, người luôn gặp khó khăn trong việc kiềm chế những lời thiếu ​​nhạy cảm khiến người khác tổn thương. Ở tuổi 40, cô đã biết cách dừng lại để suy xét trước khi bật ra những lời khiến chính mình có thể hối tiếc.

Một thái độ chu đáo hơn trong công việc. “Ở tuổi 30, điều quan trọng nhất với tôi là tiền lương và khả năng thăng tiến”, một người đàn ông 55 tuổi cho biết. “Giờ thì chất lượng của môi trường làm việc và ý nghĩa của công việc mới quan trọng nhất”.

Cởi mở với các ý tưởng mới hoặc sự phức tạp trong cuộc sống. “Tôi thường nghĩ rằng chỉ có một câu trả lời đúng cho mọi vấn đề, nhưng tôi nhận ra rằng đời không đơn giản như thế”, một bệnh nhân 42 tuổi cho biết. “Đôi khi không có câu trả lời đúng. Việc nhận ra điều này đã biến tôi thành một người bao dung hơn”.

Xem trọng trực giác hơn. Một bệnh nhân 51 tuổi nhận xét rằng ở tuổi 20, ông thường xuyên bị ám ảnh về sự quyết định, cứ mãi tìm kiếm phương án hợp lý nhất. Nhưng khi hết tuổi tứ tuần, bước vào ngũ tuần, ông thấy mình bắt đầu bị chi phối bởi trực giác nhiều hơn logic. “Thật buồn cười”, ông cho biết, “một mặt tôi cảm thấy một số quyết định của mình thiếu khách quan và đầy chủ quan, nhưng, mặt khác, tôi lại thấy thoải mái hơn với nhiều quyết định theo cách đó”.

Não biến đổi trong quá trình tái đánh giá ở tuổi trung niên

Như ta đã thấy trong chương 1, não có khả năng tăng trưởng, thuần thục và dẻo dai trong suốt cuộc đời, trong điều kiện không bị bệnh tật hoặc tai nạn. Một số thay đổi đặc biệt rõ nét trong giai đoạn tái đánh giá ở tuổi trung niên. Ví dụ, việc tăng cường sử dụng cả hai phía của não để nhận thức – tức huy động song bán cầu não – có thể khiến ta có nhân sinh quan cân bằng hơn, dựa vào cả năng lực lập luận, phân tích lẫn năng lực phi ngôn ngữ và trực giác. Điều này có thể đóng góp cho “tư duy hậu hình thức” mà ta nói đến trong chương trước, vốn là một nền tảng của trí thông minh tiến hóa.

Khi ta nghe ai đó phát biểu “Lý trí bảo tôi làm thế này, nhưng con tim mách tôi làm thế kia”, người nói ấy hầu như ở tuổi đôi mươi hơn ở tuổi 50, bởi vì theo tuổi tác, trái tim và trí óc, suy nghĩ và cảm giác của ta thường hợp nhất với nhau hơn. Bằng chứng của dạng phát triển này có thể thấy từ các nghiên cứu như của Viện Berkeley về Nghiên cứu Nhân cách và Xã hội đối với phụ nữ ở tuổi 40 và 50. Theo nghiên cứu này, so với phụ nữ trẻ, phụ nữ trung niên có ý thức mạnh mẽ hơn về bản sắc cá nhân, sự tự nhận thức cao hơn trong môi trường xã hội, tự tin hơn và kiểm soát nhiều hơn các diễn biến trong cuộc sống, và đạt năng suất cao hơn.

Tôi muốn kết thúc phần nói về giai đoạn tái đánh giá ở tuổi trung niên bằng hai câu chuyện từ trải nghiệm của tôi. Cả hai đều minh họa tác động của Động lực Nội tâm đối với trí thông minh tiến hóa và sự tái đánh giá ở tuổi trung niên, vốn là đặc trưng của giai đoạn này.

James Dunton ở tuổi trung niên

Khi gặp tôi lần đầu, James Dunton đang gặp ác mộng thường xuyên và trong lòng đầy cảm giác lo âu. Là kỹ sư máy tính và cố vấn cho các công ty Dot-Com khởi nghiệp (kinh doanh qua Internet), anh thành công về tài chính nhưng nản lòng về mặt quan hệ. Anh làm việc liên tục và đi công tác thường xuyên. Mặc dù động lực cá nhân khiến anh thành công trong kinh doanh, anh không có nhiều cơ hội cho các quan hệ lâu dài.

Ngay khi tròn 40 tuổi, anh bắt đầu xem xét lại đường đời của mình. Lúc này, anh cũng gặp một loạt những giấc mơ đáng sợ như hỏa hoạn do chập điện và thiên tai phá hủy văn phòng đầy ắp máy tính. Anh tự hỏi liệu những giấc mơ có đang nói với mình điều gì đó. “Liệu đây có phải là công việc tôi muốn làm suốt đời, để rồi chìm đắm trong công việc?”, anh hỏi tôi. “Tôi sẽ cứ làm việc đến kiệt sức hay sao?”.

Trong quá trình điều trị, tôi đã giúp anh khám phá cảm xúc và khích lệ anh soi xét nội tâm. Những giấc mơ đã khiến anh đặc biệt chú tâm và cảm xúc mạnh mẽ của chúng cũng giúp thúc đẩy việc điều trị.

Cuối năm đó, James nhận được một cuộc gọi từ vị giáo sư mà anh theo học tại trường kinh doanh. Nhà trường tuyển một giảng viên và vị giáo sư đang tìm một người có kinh nghiệm như James. “Anh đã kiếm đủ tiền rồi”, vị giáo sư nói. “Tại sao không thay đổi cuộc sống và thử làm giảng viên? Anh sẽ xuất sắc đấy!”.

Ban đầu James từ chối, nhưng những cơn ác mộng quay trở lại trả đũa. Anh quyết định nộp hồ sơ mặc dù thu nhập sẽ giảm. Sau khi đàm phán mấy mùa hè, anh nhận việc. Anh không chỉ thỏa mãn với công việc này mà 15 tháng sau lại đăng vào ngạch giáo sư trợ lý trong Chương trình Hoa Kỳ học. Điều thú vị là luận án tiến sĩ của anh có tựa đề: “Nửa đời về sau của một chuyên gia Dot-Com”.

Quỹ đạo thành công ban đầu và sự tái đánh giá ở tuổi trung niên của James là rất phổ biến. Các động lực thời trẻ hướng đến tiền bạc và địa vị dần được thay thế bởi những động lực khác – trong trường hợp của anh, một mối quan hệ tình cảm và một cuộc sống cân bằng hơn. Khi các giá trị chuyển biến và nền tảng của các giả định trước đây sụp đổ, anh bước vào giai đoạn bất ổn và lo lắng. Điều này cũng bình thường. Sự âu lo và mâu thuẫn này là một phần của quá trình phát triển. Anh đã khôn ngoan tìm sự trợ giúp trong lúc này và, kết quả là, đã có thể hiểu được và khai thác cảm xúc của mình thay vì bị chúng tác động.

Fulvia Ramirez ở tuổi trung niên

Fulvia Ramirez, người tham gia một cuộc nghiên cứu của tôi, đang theo học trung học thì cha cô tử nạn tại Việt Nam. Là chị cả trong sáu chị em, Fulvia bỗng nhiên phải phụ giúp gánh vác gia đình. Cô đã từ bỏ ước mơ vào đại học, mặc dù vẫn cố gắng vừa học vừa làm để hoàn tất trung học.

Sau khi tốt nghiệp, cô làm cho một công ty trọng dụng vốn song ngữ tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha của mình. Cô lĩnh lương cao và được khen ngợi về thái độ và kỹ năng làm việc. Ở tuổi 23, cô kết hôn với một nhà quản lý trong công ty. Cô làm việc thêm một năm nữa và sau đó nghỉ việc khi sinh con đầu lòng. Cô sinh thêm hai con nữa trong mấy năm tiếp theo, và khi chúng đi học, cô lại làm công việc phiên dịch tiếng Tây Ban Nha bán thời gian. Nhưng khi các con lớn lên, Fulvia bắt đầu để tâm đến nguyện vọng bị chôn vùi lâu năm của mình. Cô theo học chương trình giáo dục thường xuyên và bị hút vào lĩnh vực tâm lý.

Khi con gái út sắp bước vào cao đẳng, Fulvia đã đích thân xem danh mục các trường đại học. Hai năm sau, còn cách sinh nhật lần thứ 50 của mình hai năm, Fulvia đã được nhận vào học khoa tâm lý học tại một đại học trong vùng.

Quá trình tái đánh giá ở tuổi trung niên ở Fulvia là một minh họa về trí thông minh tiến hóa đầy chín chắn. Khả năng nhận thức, trí tuệ cảm xúc, sự phán xét và các kỹ năng xã hội đều ngày càng mạnh mẽ và tích hợp. Tôi tin rằng cảm giác có đủ năng lực và tự tin theo học đại học của Fulvia đã được hun đúc không chỉ bởi những rung động của sự tái đánh giá ở tuổi trung niên mà còn bởi sự thúc giục của một giai đoạn phát triển mới – khai phóng – biểu thị bởi ý thức mạnh mẽ phải tự do hành động theo niềm tin của bản thân.

Giai đoạn II: Khai phóng

Jeannette Palmer đã làm việc hầu như trọn đời ở vị trí bán hàng tại một cửa hàng bách hóa. Ở tuổi 66, khi tôi phỏng vấn, bà đang đầy nhiệt huyết và không hề có tâm trạng sẽ nghỉ hưu. “Tôi đang nóng lòng muốn làm một việc gì khác”, bà nói. “Việc đó cần phải khác thường, thậm chí có chút rủi ro. Tôi đã chán công việc ở cửa hàng”.

Trong những tuần lễ tiếp theo, Jeannette suy nghĩ tìm kiếm ý tưởng. Bà muốn tận dụng ưu thế sẵn có để làm điều mình thích. Một việc gì đó thật sự cuốn hút. Rồi bà chợt nghĩ ra: Bà thích lái xe và thích nói chuyện với mọi người.

“Có rất nhiều phụ nữ lớn tuổi hơn tôi đang thôi không lái xe nữa, nhưng họ vẫn muốn ra ngoài và đi đó đây”, bà bảo tôi. “Có lẽ họ cần một tài xế”.

Bà đăng một mẩu quảng cáo rao vặt trên báo địa phương: “Nữ lái xe dày dạn ở tuổi lục tuần sẵn sàng làm tài xế và hàn huyên với phụ nữ lớn tuổi”. Ngay lập tức bà nhận được các cuộc gọi, và công việc kinh doanh mới ra đời. Vì lý do an ninh, bà quyết định phải mang theo một khẩu súng. Thế là bà theo học một khóa, lấy giấy phép và sắm một khẩu súng ngắn. Trong lúc trò chuyện trên xe, bà cũng tìm được nhiều phụ nữ rất thích chơi poker giống mình. Thế là bà tổ chức đêm chơi poker hằng tuần mà theo lời một người bạn: “Cực kỳ hứng thú!”.

Jeannette, nữ tài xế có súng và mê poker, đã duy trì công việc kinh doanh của mình đến giữa những năm 70 tuổi, và kể rằng bà chưa bao giờ hối hận lấy một giây vì đã “đổi nghề”. Tôi nhìn thấy trong nỗi khao khát được làm “việc khác” của bà những dấu hiệu của sự đánh giá lại đường đời để bước vào giai đoạn khai phóng, với ý chí sẵn sàng mạo hiểm để khởi nghiệp. Trong giai đoạn này, tư tưởng và hành vi sẽ mang nét đặc trưng của một sự thư thái mới mẻ về bản thân và tinh thần quyết liệt thể hiện chính mình một cách tự do hoặc thử nghiệm cái mới. Nỗ lực sáng tạo được khích động bởi năng lượng bổ trợ từ cảm giác tự do cá nhân ở tuổi hưu, cả về tâm lý và theo nghĩ đen. Ở giai đoạn này người ta thường cảm thấy các ức chế trước đây được tháo bỏ và ngày càng có xu hướng bỏ qua tập quán xã hội. Thái độ nổi trội của giai đoạn khai phóng là: “Nếu không phải lúc này, thì lúc nào?”, “Tại sao không?” và “Họ có thể làm gì tôi?”.

Con người có xu hướng cảm thấy thoải mái về bản thân trong lúc này, bởi biết rằng nếu họ phạm sai lầm thì cũng không gây tổn hại nghiêm trọng gì đến hình ảnh bản thân. Điều này tạo ra hoàn cảnh thuận lợi để thử nghiệm và đổi mới. Như một người phát biểu, “Ta không cần phải chứng minh bất cứ điều gì với bất cứ ai nữa. Đó là một sự giải thoát”. Vì vậy, trong khi một người ở tuổi 20 có thể không đi học vẽ vì sợ bản thân không đủ năng khiếu, chính người đó ở tuổi trung niên hoặc lớn hơn – nhất là khi động lực khai phóng này thúc đẩy cao độ – sẽ ít quan ngại hơn về diện mạo và cởi mở hơn để học cái mới. Trong tâm trạng này, ta sẽ dễ dàng hơn khi thử một khóa học, một chuyến hành trình hoặc một trải nghiệm mới lạ. Sức mạnh và sự thư thái của những cảm xúc này được thể hiện trong bài tiểu luận nhân sinh nhật thứ 70 của Mark Twain:

Sinh nhật thứ 70! Đây là thời điểm trong đời ta đi đến một chân giá trị mới mẻ và đáng sợ; khi ta có thể ném sang một bên những giới hạn khuôn phép đã đè nén ta cả một thế hệ để đứng không sợ hãi và không nao núng trên đỉnh cao bảy bậc mà nhìn xuống và bảo ban – không bị quở trách.

Hưu niên

Hưu niên là ngưỡng đời phổ biến nhất của những người Mỹ trưởng thành ở giữa độ tuổi 60 trở lên. Chúng ta sẽ khảo sát những phát hiện mới về tuổi hưu niên đầy đủ hơn trong chương 7, nhưng trước tiên chúng ta hãy hiểu cho rõ: Động lực phát triển với người đang ở hoặc sắp đến độ tuổi nghỉ hưu không nhằm hướng đến sự nghỉ ngơi, buông xuôi với khí lực suy tàn. Ngược lại, Động lực Nội tâm phổ quát ở tuổi này là cảm giác mới về sự khai phóng cá nhân. Và mặc dù việc nghỉ hưu có thể xúc tác cho giai đoạn này, không nhất thiết phải có nó để khuấy động cảm giác về tự do và khám phá.

Sự khai phóng ở tuổi hưu niên có thể giống ở tuổi tráng niên. Cả hai giai đoạn đều thường mạnh mẽ hướng đến sự thử nghiệm các vai trò mới và cảm giác về quyền tự chủ. Cả hai đều biểu thị cho sự thay đổi lớn về bản sắc cá nhân. Ở tuổi mới lớn, ý thức về bản thân được định hình mạnh mẽ bằng nội tiết tố, giáo dục và trải nghiệm. Trong giai đoạn khai phóng ở người lớn, các khía cạnh mới về bản sắc cá nhân có thể tự bộc lộ hoặc hình thành từ đầu.

Cả hai giai đoạn đều có Động lực Nội tâm mạnh mẽ muốn kiểm nghiệm các giới hạn. Ở tuổi trưởng thành, điều này có thể bộc lộ dưới dạng hành vi liều mạng, khinh suất đôi khi được gọi đùa là trò “cưa sừng làm nghé”.

Ở một cấp độ sâu hơn, năng lượng tiến hóa này kết hợp với các mô thức cụ thể của sự tăng trưởng não bộ mà ta đã xét trong chương 1, vốn củng cố các vùng não chịu trách nhiệm xử lý thông tin, học hỏi và hình thành trí nhớ. Đặc biệt, các sợi nhánh, phần mở rộng dạng rễ của tế bào thần kinh để xúc tiến việc truyền đạt giữa các tế bào não, phát triển đến số lượng lớn nhất và mật độ cao nhất trong hồi hải mã của người ở đầu độ tuổi 50 đến cuối 70, một quãng thời gian hoàn toàn bao trùm giai đoạn khai phóng. Hơn nữa, các tế bào thần kinh mới vẫn tiếp tục phát triển trong hồi hải mã. Sự kết hợp năng lực trí não với sự phát triển tâm lý đã mang lại năng lượng để khám phá những thử thách mới, học hỏi những kỹ năng mới, và thử nghiệm các hoạt động, các vai trò và các mối quan hệ mới.

Annette Green: già dặn hơn, khôn ngoan hơn và can đảm hơn

Annette Green chưa bao giờ là người quyền chức. Thuộc dạng người ân cần, nhẹ nhàng, bà lo toan công việc quản gia và có xu hướng nhường quyền cho người khác chứ không “khuynh đảo”. Năm 68 tuổi, bà đến chỗ tôi để được tư vấn về con gái của mình, người có tiền sử bệnh tâm thần lâu năm. Bà bảo tôi rằng trước đó bà luôn cảm thấy các bác sĩ của con mình biết rõ nhất và nên nghe theo lời khuyên và các quyết định của họ. Nhưng gần đây, bà bắt đầu cảm thấy nên quyết đoán hơn và chủ động hơn trong việc chăm sóc cô con gái.

Bà cho biết đây là những cảm xúc mới. Thực tế, việc gặp tôi cũng là lần đầu tiên bà tham vấn về chuyện liên quan đến con gái mình. Nhưng bà có vẻ thoải mái khi ngồi tham vấn tôi. Trong cuộc nói chuyện, bà cũng đề cập đến một đứa cháu trai đã học giỏi bất chấp môi trường tệ hại của ngôi trường trung học nằm kẹt trong phố. Annette cho biết trước đó bà luôn cảm thấy e sợ phải tìm cơ hội mới cho đứa cháu, nhưng gần đây bà không thể ngồi yên mà không ra tay giúp sức. “Nếu tôi không làm thì ai sẽ làm?”, bà bộc bạch.

Hôm đó bà ra về với địa chỉ liên lạc và đề xuất của tôi về một số chương trình cộng đồng mà tôi nghĩ có thể hỗ trợ thêm nữa để giúp bà chăm sóc con gái. Về sau tôi biết rằng Annette đã thành công khi làm theo những gợi ý đó và hài lòng với sự tiến triển của con gái. Tôi cũng biết rằng bà đã theo đuổi một số đầu mối để tìm các trường trung học tư thục cùng với học bổng mà cháu trai của mình có thể hội đủ điều kiện. Cuối cùng, cậu bé đã được cấp học bổng vào một trong những ngôi trường ấy. Bà bảo tôi rằng bà cảm thấy “rất sung sướng” về thành tích của đứa cháu, về lòng can đảm đầy mới mẻ của mình và sự thành công khi dấn bước hành động.

Nếu Annette đến gặp tôi nhiều năm trước đó, khi chưa bước vào giai đoạn khai phóng, tôi không nghĩ bà có đủ cảm giác tự do cần thiết để trở nên chủ động như vậy để lo cho con gái và cháu trai của mình. Chính những thay đổi bên trong của giai đoạn này đã tạo ra mảnh đất màu mỡ cho những lời đề xuất của tôi. Động lực Nội tâm của bà đã làm phần còn lại.

Không có lúc nào như lúc này

“Nếu không phải lúc này, thì lúc nào?” là một câu thần chú thường được nhắc trong giai đoạn khai phóng. Đến giai đoạn đời này, nói chung ta đã giải quyết được bất kỳ cảm giác âu lo nào về việc đối diện với cái chết, và cảm thấy một nhu cầu ngày càng tăng phải sử dụng tốt quãng thời gian còn lại. Quan kiến này có thể thôi thúc mạnh mẽ ta phải làm điều mà mình luôn muốn làm nhưng chưa bao giờ có thời gian hoặc đủ can đảm để bắt tay.

Phil Smith là giám đốc truyền thông thành công trong tập đoàn. Trạc gần 60, ông cảm thấy bị cuốn hút phải dành nhiều thời gian hơn cho hai hoạt động mình yêu thích: đi xe đạp và nhiếp ảnh. Ông quyết định nghỉ hưu công việc toàn thời gian và chuyển sang tư vấn. Khi dành nhiều thời gian cho nhiếp ảnh, ông đã nổi danh với ảnh thôn dã trong vùng. Khi được hỏi điều gì đã khiến ông lao theo niềm đam mê nhiếp ảnh, ông cho biết mình cảm thấy được giải thoát khỏi những mối quan ngại của tuổi trẻ bởi nhận thức được sự quý báu và hữu hạn của cuộc đời.

“Bạn cũng bắt đầu nhận thức rõ hơn rằng chúng ta không đối mặt với từng chặng dài của lịch sử”, ông chia sẻ. “Mà với từng ngày đi qua, và mỗi một ngày đều có ý nghĩa. Công việc của ta – bất kể việc gì – là làm cho từng ngày trở nên tươi đẹp nhất có thể, từng ngày một, từng ngày”.

Ta cũng có thể thấy được lòng can đảm theo đuổi những ước mơ trì hoãn đã lâu trong câu chuyện của Emily Hale.

Emily làm nghề thủ thư, một công việc phù hợp với tác phong ăn nói nhỏ nhẹ và thói quen thích ở một mình cũng như sự yên tĩnh. Emily cũng là một nhà hoạt động, và luôn ủng hộ các phong trào về giáo dục công ích, môi trường và bảo tồn – mặc dù chủ yếu bằng cách quyên góp tiền bạc chứ không đăng đàn trong các cuộc họp hoặc đảm nhận vai trò lãnh đạo.

Khi nghỉ hưu ở tuổi 65, Emily bảo tôi rằng bà cảm thấy bên trong có tiếng nói ngày càng giục giã bà hãy vận dụng kiến thức của mình. Bà đã bỏ ra vài năm sau đó để tìm hiểu hoạt động chính trị trong vùng và tiểu bang để tham gia hoạt động và viết lách nhiều hơn nhằm hỗ trợ giáo dục công ích. Công việc của bà gây được sự chú ý, và bà được bổ nhiệm vào một tiểu ban thuộc hội đồng giáo dục địa phương. Bà sinh lòng đam mê đặc biệt với con số tỉ lệ học sinh/giáo viên. Bà lập luận rằng hệ thống hiện tại cho phép nhồi nhét hợp pháp quá nhiều trẻ em vào một lớp. Nhằm vận động thay đổi chính sách về vấn đề này, bà đột nhiên trở nên mạnh dạn, sẵn sàng đối đầu với những ai xem nhẹ vấn đề hoặc cho rằng tình trạng này không thể thay đổi.

Lần đầu tiên trong đời, bà thấy mình tham dự các cuộc tranh luận gay gắt. Một hôm, bà thắc mắc với tôi rằng không biết liệu hành vi của bà có đe dọa mối quan hệ với đồng nghiệp hoặc thậm chí vị trí của bà trong hội đồng. Nhưng rồi, đáp lại nỗi sợ và để cất lên tiếng nói đang thôi thúc bên trong, giọng bà vẫn đanh thép. Gõ bàn để nhấn mạnh, bà nói, “Vâng, nhưng đó là việc đúng đắn phải làm, vả lại, tôi 68 tuổi – họ có thể làm gì được tôi?”. Nói đoạn bà mỉm cười.

Sự xét lại và khai phóng

Trong chương này, ta đã khám phá hai giai đoạn đầu của tuổi cao niên. Ta đã thấy nhận thức mới về cái chết của bản thân đẩy ta vào giai đoạn xét lại ra sao và sự biến đổi tâm lý lẫn thể chất trong trí óc và não bộ đã giải thoát ta ra sao để gieo cảm giác mới về sự khai phóng. Hai giai đoạn đời này có thể hết sức hữu dụng. Tôi đã mô tả cuộc đời của những con người bình thường để minh họa cho điều này, nhưng ta cũng dễ tìm thấy những câu chuyện tương tự trong lịch sử. Socrates ở vào tuổi 70 khi bị buộc phải tự sát vì tư tưởng của ông đe dọa các giả định và niềm tin của những người cai trị Athens. Cũng ở tuổi 70, Nicholaus Copernicus đã công bố bằng chứng trái đất xoay quanh mặt trời, dấy lên các cuộc cách mạng trong khoa học lẫn thần học. Về sau, Galileo, 68 tuổi, đã mở rộng và tranh biện cho chân lý trong lý thuyết của Copernicus. Ông bị bắt ngay và bị quản thúc tại gia suốt tám năm cuối đời. Trong vô số những câu chuyện trong thời gian gần đây, ta có thể nhắc đến Laura Ingalls Wilder, người bắt đầu viết loạt sách Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên ở tuổi 65. Bà tiếp tục viết đến mười năm sau.

Tôi muốn nhấn mạnh một lần nữa rằng sự xét lại và khai phóng ở tuổi trung niên không phải là “khủng hoảng”, cũng chẳng phải là hậu quả của khủng hoảng. Tất nhiên, sự phát triển và biến đổi trong các giai đoạn này thường đi kèm với nỗi lo âu, trăn trở, do dự hoặc bối rối. Điều đó là bình thường, nhưng các giai đoạn này, về tổng thể, là những trải nghiệm tích cực một cách lạ thường, trừ phi người ta đang trải qua bệnh tật, tổn thất hoặc thiếu thốn cực độ. Hai giai đoạn sau trong đời có tiềm năng phát triển tích cực không kém, như chúng ta sẽ thấy trong chương tiếp theo.