KHAI THÁC TRÍ THÔNG MINH TIẾN HÓA
Tất cả những gì đáng giá trong xã hội loài người đều phụ thuộc vào cơ hội phát triển thuận lợi cho cá nhân.
• Albert Einstein
Trái với các giả định thông thường, quá trình phát triển diễn ra không chỉ ở trẻ em. Ta không chấm dứt phát triển ngay khi bước vào tuổi tráng niên, như một “đích đến” cuối cùng khi trở thành người lớn. Ý này nghe vậy mà không dễ cảm nhận. Như ta đã thấy trong phần dẫn nhập, lĩnh vực tâm lý học phát triển chủ yếu dựa trên các lý thuyết không nhìn xa hơn ngưỡng tuổi trưởng thành, cứ như thể tất cả các giai đoạn tăng trưởng quan trọng đã kết thúc vào thời điểm đó. Và quan điểm phổ biến là xem quá trình lão hóa như sự tiêu hao, như thể chiếc đồng hồ phát triển bắt đầu chạy ngược từ tuổi trưởng thành, cuối cùng quay trở lại tuổi thơ ấu. Lão hóa tối ưu theo quan điểm này có nghĩa là duy trì những ưu thế và năng lực hiện có càng lâu càng tốt và trì hoãn những gì được cho là sự suy thoái không tránh khỏi.
Tất nhiên, quả thật những người lớn tuổi đang mắc bệnh về trí não và thể chất có thể cho thấy một sự “thoái triển”, bởi họ ngày càng trở nên bất lực và lệ thuộc, như trẻ nhỏ. Những người lớn tuổi trong các giai đoạn sau của bệnh Alzheimer, vào lúc cực điểm, mất kiểm soát cơ thể lẫn trí óc và thực chất trở nên những đứa bé lớn tuổi cần được chú ý và trợ giúp liên tục. Rõ ràng, xét từ quan điểm thuần túy thể chất, quả thật nhiều hệ cơ quan của cơ thể từ từ suy yếu theo tuổi tác, mất đi độ dẻo dai và năng lực.
Nhưng khi xem xét nửa đời sau thông qua khung cửa sổ hẹp này, ta đã bỏ lỡ những khía cạnh quan trọng nhất của quá trình lão hóa, chấp nhận một thế giới quan u buồn và phiền muộn.
Sự thật nằm ở chỗ quá trình lão hóa là một quá trình phát triển mà, theo nghĩa rộng nhất, vẫn tiếp diễn, bồi đắp sinh lực và mang lại lợi ích sâu sắc. Tại sao? Bởi vì suối nguồn để phát triển và biến đổi không bao giờ khô cạn. Phát triển là khơi mở bền vững tiềm năng về thể chất, tinh thần, cảm xúc và triết lý trọn vẹn của một con người. Nó được thúc đẩy bởi nhiều lực thăng trầm trong suốt cuộc đời. Một số lực thuần túy thuộc thể chất, như sự tăng tiết hormone để thúc đẩy phát triển ở thai nhi và những năm niên thiếu. Một số thuộc về cảm xúc: Ở mọi giai đoạn đời, ta đều khao khát tình yêu, sự chấp nhận và sự chú ý từ người khác và cảm thấy muốn yêu thương, chấp nhận và chú ý đến những người khác. Và như hầu hết các loài sống quần cư trên hành tinh này, chúng ta bị tác động mạnh bởi nhu cầu về địa vị xã hội, về “sự thành đạt” và sự mở rộng phạm vi kiểm soát cho mình.
Chúng ta có chung nhiều động lực này với động vật, nhất là các động vật có vú. Nhưng sự phát triển của con người cũng được thúc đẩy bởi các động lực phát xuất từ khả năng tư duy trừu tượng, chiêm nghiệm, sáng tạo và văn hóa, mà vốn được hỗ trợ bởi não bộ to lớn và phức tạp của ta. Chẳng hạn, chúng ta là một loài tò mò cao độ. Sự tò mò về thế giới là một trong những động lực có thể lớn mạnh hơn theo thời gian, chứ không yếu đi. Càng biết nhiều, ta càng thấy mình thiếu hiểu biết ra sao. Sự tò mò lại càng hun đúc sự tò mò, và dẫn đến việc học tập. Nếu không bị sớm dập tắt bởi giáo điều, đường lối tư duy chính thống hoặc các hệ niềm tin, sự tò mò có thể nảy nở cả đời và là một cội nguồn mang đến năng lượng, sức sống và niềm thỏa mãn.
Con người khác biệt nhau ở các động lực phát triển “cấp cao”, như tâm linh và biểu đạt nghệ thuật, nhiều hơn ở các động lực căn bản, như để tìm đến sự thoải mái và an sinh. Một số người, chẳng hạn, bị thôi thúc mạnh mẽ phải sáng tạo, dưới dạng nghệ thuật truyền thống hoặc đơn thuần qua bất kỳ công việc hay cơ hội nào quanh họ. Có người không quá chú tâm vào sáng tạo, nhưng lại có động lực mạnh mẽ muốn phụng sự người khác. Một số người bị thôi thúc phải theo đuổi mục đích tâm linh – muốn tìm một giá trị tâm linh mà họ thấy chân chính và tương hợp với các niềm tin khác nhau về cuộc sống. Tất nhiên, có người cảm thấy cả ba động lực này mạnh như nhau. Ý của tôi đơn thuần là mọi người có thể có những trải nghiệm khác biệt nhau của những động lực thúc đẩy sự phát triển của con người.
Trong các chương sau, tôi khảo sát một số động lực phát triển cụ thể. Ở đây tôi muốn đưa ra nguyên lý căn bản rằng sự tiến hóa của chúng ta không dừng lại ở “tuổi trưởng thành”, mà tiếp tục suốt đời. Sự tiến hóa này được thúc đẩy bởi nhiều chuỗi thôi thúc, ước muốn, ham mê, khao khát và tìm kiếm, mà tôi gọi chung là Động lực Nội tâm. Như tôi đã lưu ý trong phần dẫn nhập, Động lực Nội tâm là một nguồn lực hợp từ nhiều lực, giống như nhựa sống mùa xuân trào dâng trong vô số kênh mạch trong thân cây, để cây cối ra hoa và vào mùa.
Trong công trình của tôi với hàng ngàn người từ trung niên đến hơn 100 tuổi, tôi thường thấy những động lực phát triển sau đây trỗi dậy nhiều nhất:
• Để rốt cục nhận biết chính mình và tự tại với bản thân
• Để biết cách sống tốt
• Để có sự đánh giá tốt
• Để cảm thấy toàn mãn – về tâm lý, trong quan hệ với con người, và về tâm linh – bất chấp tổn thất và nỗi đau
• Để sống tận lực cho đến lúc cuối cùng
• Để đóng góp cho gia đình, cộng đồng và tha nhân
• Để kể câu chuyện đời mình
• Để tiếp tục hành trình khám phá và thay đổi
• Để luôn ước vọng bất chấp nghịch cảnh
Đây là những đề mục phát triển của đời người, và tôi không cho rằng Thiên nhiên đã sắp xếp để chúng ta thất bại. Bất kể với thách thức gì, dòng năng lượng tiến hóa ngầm vẫn giúp chúng ta tiến đến các mục tiêu này bằng nhiều cách theo dòng tuổi tác.
Tôi đã thấy Động lực Nội tâm tác động đến cuộc sống của Kathleen Kramer, người phụ nữ ở tuổi 41 khi tôi mới gặp. Chúng tôi hẹn gặp để bàn về nhu cầu chăm sóc cho người mẹ 73 tuổi của cô vốn bị bệnh Alzheimer. Trong lúc nói chuyện với Kathleen, tôi biết được đôi điều về đời tư của cô. Cô đã kết hôn vội vàng trong năm đầu ở đại học. Rồi cô mang thai và sinh con trong năm. Thật không may, người chồng là một tay bạo hành nên cô quyết định ly hôn, bất chấp gánh nặng phải chăm sóc con thơ.
Trách nhiệm làm mẹ đơn thân buộc Kathleen phải bỏ học đại học. Cô luôn thích đọc sách, và tìm được công việc bán thời gian tại một hiệu sách. Những lúc đọc sách cho con đã khơi dậy trong cô sở thích đối với sách thiếu nhi, và cuối cùng cô trở thành nhân sự then chốt trong lĩnh vực sách thiếu nhi của hiệu sách.
Gần 40 tuổi, khi con đã vào đại học và người mẹ già đang được hỗ trợ chăm sóc tại gia, Kathleen cảm thấy bứt rứt. Cô luôn hối tiếc vì đã bỏ học đại học nhưng không biết chắc mình sẽ theo ngành gì nếu đi học trở lại. Một hôm, trong lúc trao đổi với tôi, cô nhắc đến nỗi đam mê đối với sách thiếu nhi và thú đọc sách. “Hmmm...”, tôi chợt hỏi, “lẽ nào chỉ dừng lại ở đó? Sao cô không thử kết nối mọi thứ lại với nhau thành một bức tranh?”. Cô cười khúc khích và nói, “Vâng, thế thì có lẽ tôi sẽ vào đại học, theo ngành Anh ngữ, rồi đi theo chuyên ngành về văn học thiếu nhi”.
Tôi không liên lạc với Kathleen sau đó vì mẹ cô đã được chăm sóc ổn thỏa. Nhưng 11 năm sau, Kathleen gọi cho tôi. Người cha 86 tuổi của bà bị trầm uất. Trong quá trình giúp bà lên kế hoạch chăm sóc cha, tôi được nghe về những thay đổi trong đời bà. Bà đã hành động theo cuộc trò chuyện ngày trước, trở lại học đại học, lấy bằng cử nhân và sau đó bằng tiến sĩ về văn học thiếu nhi. Kathleen bắt đầu giảng dạy văn học thiếu nhi tại một trường đại học trong vùng và vừa viết xong cuốn truyện thiếu nhi đầu tay.
Câu chuyện của Kathleen ngày càng phổ biến. Một báo cáo năm 2003 của Trung tâm Thống kê Giáo dục Quốc gia cho thấy 16% những người nhận bằng cử nhân lớn hơn 30 tuổi. Viện Chính sách Giáo dục Cao học báo cáo rằng tỉ lệ sinh viên trên 40 tuổi tại các trường cao đẳng tăng 235% từ năm 1970 đến năm 1993. Ngày nay, có 10% tổng số sinh viên đại học và 22%% tổng số sinh viên cao học trên 40 tuổi.
Nhưng cơ bản hơn, câu chuyện của Kathleen cho thấy Động lực Nội tâm của chúng ta lớn mạnh và phát triển không ngừng ra sao. Bà đáp lại sự thôi thúc sâu xa về tinh thần bằng nhiệt huyết và sự tự tin, và rồi tiềm năng bên trong đã nảy nở.
Trí thông minh tiến hóa
Phát triển không phải là một cuộc tranh đua hay cạnh tranh. Không có một mục tiêu đơn lẻ nào để người ta gắng đạt được và khoe, “Bây giờ tôi đã hoàn toàn phát triển rồi nhé”. Hầu hết mọi người đều trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, và xét theo đó, họ “hoàn thành” một số khía cạnh phát triển. Tập đi và tập nói, chẳng hạn, là các giai đoạn rõ ràng hầu hết mọi người đều đạt được. Khi ta lớn lên, các động lực phát triển có thể biểu lộ nhiều hơn hay ít hơn, do bị tác động bởi nhiều yếu tố, mà hầu hết nằm ngoài tầm kiểm soát của ta. Nhu cầu gắn bó bẩm sinh của một ai đó, ví dụ, có thể gặp trở ngại do cha mẹ của người đó lạnh nhạt hoặc do bị rối loạn chức năng. Tính tò mò thiên bẩm về thế giới có thể bị trù dập bởi những nhân vật có uy quyền ra tay cấm cản mọi thắc mắc hoặc hoài nghi. Ngược lại, động lực bẩm sinh của ta cũng có thể được nuôi dưỡng và nâng đỡ để dẫn đến một sự phát triển phong phú.
Quá trình phát triển mang tính đặc thù cá nhân cao độ, như lời của Einstein ở đầu chương này. Mục tiêu cuối cùng đơn giản là nhằm thể hiện tiềm năng độc nhất vô nhị của riêng ta. Chúng ta dùng thuật ngữ trí thông minh tiến hóa cũng theo nghĩa này – mức độ một người thể hiện năng lực thần kinh, cảm xúc, trí tuệ và tâm lý độc nhất vô nhị của mình. Thông minh về sự phát triển có nghĩa là nhận thức được sự phát triển của riêng mình, cả trong quá khứ và hiện tại. Nó cũng mô tả trình độ phát triển của bạn – mặc dù sự mô tả này là không chính xác như chỉ số IQ.
Trí thông minh tiến hóa (DI): Sự trưởng thành các năng lực cá nhân về nhận thức, phán đoán, trí tuệ cảm xúc, trí thông minh xã hội, kinh nghiệm cuộc sống và ý thức (bao gồm tâm linh) – được thúc đẩy phát triển và hợp nhất với nhau chặt chẽ hơn theo tuổi tác. Trí thông minh tiến hóa tự thể hiện dưới dạng sự uyên bác.
Trí thông minh tiến hóa được định nghĩa là sự trưởng thành về nhận thức, trí tuệ cảm xúc, phán đoán, kỹ năng xã hội, kinh nghiệm cuộc sống, ý thức cũng như sự hợp nhất và sức mạnh tổng hợp của những yếu tố này. Theo tuổi tác, mỗi khía cạnh riêng lẻ này của trí thông minh tiến hóa tiếp tục dày dặn, cũng như quá trình hợp nhất chúng cũng dày dặn. Đây là lý do nhiều người lớn tuổi tiếp tục hoạt động trí tuệ với mức độ rất cao và cho thấy một sự uyên bác liên quan đến tuổi tác (mà tôi sẽ thảo luận trong chương 6).
Như tôi đã nhấn mạnh ngay từ đầu, không thể phủ nhận rằng tuổi tác cũng có các vấn đề đi kèm – mà nghiên cứu cho đến nay tập trung chủ yếu vào các vấn đề như vậy, thường là các cấu phần riêng lẻ trong tổng thể cấu trúc thượng tầng thần kinh. Người ta ít chú ý đến tình trạng lợi thế và sự suy hao có thể cùng diễn ra. Ví dụ, người lớn tuổi thường gặp nhiều khó khăn hơn khi tìm từ ngữ – hiện tượng “quên từ nhưng thấu hiểu nghĩa” – nhưng đồng thời, tổng số từ họ dùng – vốn từ vựng – tiếp tục gia tăng. Nếu chỉ nhìn vào một số chức năng chuyên biệt, như các năng lực về trí nhớ hoặc tính toán, ta sẽ bỏ qua bức tranh tổng thế để thấy các chức năng này đã tích hợp chặt chẽ hơn với nhau ra sao, khiến gia tăng hiệu suất tổng thể. Đây là trọng tâm của trí thông minh tiến hóa.
Tôi không quan tâm đến việc đo đạc trí thông minh tiến hóa vì tôi đang truyền đạt ý niệm rằng tất cả chúng ta đều có trí thông minh tiến hóa ở một mức độ nào đó, và, như với mọi loại trí thông minh, chúng ta có thể chủ động thúc đẩy sự tăng trưởng của nó. Khi ta lớn lên và tiến hóa, trí thông minh tiến hóa bộc lộ thành những phẩm chất bề sâu như sự uyên bác, óc phán xét, quan điểm và tầm nhìn. Một số người trong ngành của tôi dùng thuật ngữ “tư duy hậu hình thức” (posformal thought) để mô tả các thuộc tính mà tôi gắn với nhận thức cao cấp, một cấu phần của trí thông minh tiến hóa, vốn trở nên rõ nét hơn khi ta bước vào tuổi trung niên. Một cụm từ khác mô tả cùng khái niệm là “lý luận cấp cao”. Dạng nhận thức cao cấp này có ba phong cách tư duy đặc thù:
• Tư duy tương đối nghĩa là hiểu rằng kiến thức đôi khi phản ánh quan điểm chủ quan của ta, rằng bối cảnh ảnh hưởng đến kết luận của ta, mà bối cảnh có thể thay đổi, và rằng các câu trả lời không tuyệt đối. Suy nghĩ tương đối đòi hỏi phải tổng hợp kiến thức từ các quan điểm khác biệt hoặc đối lập nhau. (Loại tư duy này có liên quan đến tư duy biện chứng). Sau đây là một ví dụ: “Mối quan hệ của chúng tôi thật phức tạp. Tôi cứ dao động liên tục giữa các cảm giác, vừa muốn yêu thương anh ta xong lại muốn rời bỏ. Nhưng tôi nhận ra rằng mình phải xử lý cả hai cảm xúc này cùng lúc. Sau khi suy xét lý do yêu anh ấy, tôi hiểu rõ hơn mặt tốt trong mối quan hệ và đồng lòng để phát huy khía cạnh đó. Bằng cách suy xét lý do muốn bỏ anh ta, tôi xác định được những gì không ổn và đồng lòng sửa đổi. Tôi đoán rằng ở tuổi 45 này, tôi già dặn và khôn ngoan hơn. Có thể chuyện không đi đến đâu, nhưng tôi cảm thấy mình thấu suốt hơn về mọi lẽ, và điều đó sẽ càng dễ giúp tôi lèo lái mọi chuyện đi theo chiều hướng tốt đẹp”.
• Tư duy biện chứng là khả năng phát hiện và giải quyết mâu thuẫn trong những quan điểm đối nghịch và dường như không tương hợp. Đó cũng là khả năng kiềm chế sự phán xét đủ lâu để duy trì cùng lúc trong tâm trí các quan điểm loại trừ lẫn nhau. “Thử nghiệm cái mới lúc nào cũng khó đối với tôi. Tôi sợ quyết định sai, vì vậy đôi khi tôi chần chừ quá lâu và đánh mất cơ hội. Trong đầu tôi có những tiếng nói giằng co. Một đằng nói, “Hãy quan sát trước khi nhảy”, nhưng trong quá khứ, tôi đã quan sát quá lâu. Một đằng khác nói: “Do dự thì thua thiệt”, và có lúc tôi lao vào mọi chuyện mà chẳng kịp nhìn gì cả. Tôi thường cho rằng hai quan điểm này không tương thích, nhưng giờ đây tôi có thể tận dụng cả hai – tôi nghĩ rằng chúng đang cùng giúp tôi thoát khỏi thế bế tắc”.
• Tư duy hệ thống nghĩa là nhìn thấy được khu rừng thay vì chỉ là những cái cây. Đó là khả năng lùi lại trước một ý tưởng hoặc tình huống để có cái nhìn rộng hơn về toàn bộ hệ thống kiến thức, ý tưởng và bối cảnh liên quan. “Tôi từng nghĩ rằng sự xung đột lâu nay với em gái tôi bắt nguồn từ những quan điểm khác biệt về cơ bản. Nhưng rồi tôi nhận ra rằng, cả đời, chúng tôi đã được cha mẹ đối xử rất khác nhau, và tôi nhìn thấy sự tác động lớn hơn từ gia đình. Điều này đã mang lại cho tôi một cái nhìn mới để có cách xử sự với cô ấy. Mãi đến những năm 40 tuổi, tôi mới nhìn ra đầy đủ điều này. Tôi nhận ra rằng mình phải nhìn lại toàn bộ hệ thống gia đình một cách toàn diện hơn để biết cách hành xử thỏa đáng hơn với em gái tôi”.
Ba dạng tư duy này đều “cao cấp” theo nghĩa chúng không xảy đến một cách tự nhiên khi ta còn trẻ. Do bản chất, chúng ta thích những câu trả lời phải rạch ròi đen hoặc trắng, đúng hoặc sai. Chúng ta muốn một câu trả lời rõ ràng, và thường một câu trả lời nào đó còn tốt hơn không có gì. Chúng ta quen khó chịu với sự mơ hồ, bất định và mâu thuẫn. Chúng ta không ngừng (và hầu như một cách vô thức) cố gắng tránh né hoặc dập tắt “xung đột nhận thức” – tức sự khó chịu do có những ham muốn, ý tưởng hoặc niềm tin trái ngược nhau.
Cần có thời gian, kinh nghiệm và sự học tập để phát triển các năng lực tư duy tương đối, biện chứng và hệ thống. Không dễ thách đố những niềm tin, tuy không rõ ràng, nhưng mang lại sự trấn an đối với các vấn đề của cuộc sống. Đôi khi thật khó nói thẳng, “Tôi không biết”, mà cứ phải cố tìm một câu trả lời. Nhưng khả năng chấp nhận sự bất định, thừa nhận rằng câu trả lời thường chỉ tương đối, và gác lại phán xét để đánh giá kỹ càng hơn những luận điểm đối nghịch là một chỉ dấu thực sự của tư duy hậu hình thức và trí thông minh tiến hóa. Thực tế, về một số khía cạnh, sự khôn ngoan đồng nghĩa với “trí thông minh tiến hóa”. Trí thông minh tiến hóa được thể hiện dưới dạng sự khôn ngoan. Cả hai đều là biểu hiện của suy nghĩ chín chắn, kinh nghiệm sống được tích lũy, sự phát triển cảm xúc và, như ta đã thấy trong chương trước, những thay đổi tích cực trong não theo tuổi tác.
Một ví dụ về tác động của trí thông minh tiến hóa là câu chuyện về một biên tập viên tôi biết ở một công ty xuất bản tại New York. Ông đang ở độ tuổi 60 và một hôm tâm sự với tôi trong bữa ăn trưa rằng thật không ổn khi phải bắt đầu tính chuyện nghỉ hưu sau khi ông đã mất 40 năm để trở nên dày dặn trong công việc.
Người đàn ông này đã trải qua nhiều vị trí công việc trong nhiều năm. Trí tuệ sắc bén và niềm đam mê công việc là vốn quý nhất của ông, nhưng sự thiếu kiên nhẫn và thiếu kỹ năng con người lại luôn là thách thức của ông. Ông có kỹ năng vô giá về biên tập nhưng, sau bao nhiêu vị trí, vẫn phải đánh vật với các mối quan hệ vì xu hướng ưa cộc cằn, chỉ trích và không nhạy cảm với cảm xúc của người khác. Ông cho biết, mới chỉ vài năm qua, đã bắt đầu làm chủ được trong giao tiếp, một kỹ năng mà một số người dường như sinh ra đã có nhưng những người khác phải mất nhiều thập niên mới trau dồi được. Khi sự phát triển cảm xúc của ông bắt kịp với sự phát triển trí tuệ, ông chuyển từ một kẻ tài giỏi nhưng cáu kỉnh và cô độc thành một bậc thầy và chuyên gia hòa giải xung đột giữa mọi người. “Tôi cảm thấy chính mình như một người đã đổi khác”, ông kể với một nụ cười đầy vẻ kinh ngạc. Tuổi tác đã phát huy vai trò kỳ diệu của nó. Những đổi thay phong phú về thần kinh và tâm lý trong nhiều năm đã cho phép những yếu tố trong trí thông minh tiến hóa của ông chín muồi và phát triển.
Hiểu tiềm năng phát triển của chúng ta
Sự phát triển sau khi trưởng thành cũng mạnh mẽ như ở tuổi thanh niên – với một khác biệt quan trọng. Ở tuổi thanh niên, ta hầu như bất lực trong việc lèo lái sự phát triển cảm xúc và trí tuệ của mình. Khi trưởng thành, ta kiểm soát được nhiều hơn. Ta có thể hiểu được chính mình, động cơ của mình, và những thách thức của mình mà một trẻ nhỏ không thể. Hơn nữa, là người lớn, ta được tự do lựa chọn một cách có ý thức và hành động có mục đích để đi theo hướng mình muốn. Câu chuyện Kathleen Kramer lấy bằng tiến sĩ về văn học thiếu nhi là một minh họa sống động cho điều đó. Còn đây là một ví dụ khác: Nếu bạn biết rằng việc mình ngại thuyết trình khiến cho sự thăng tiến nghề nghiệp bị cản trở, bạn có thể quyết định theo học một lớp về diễn thuyết hoặc tìm người huấn luyện. Tương tự, nếu cảm thấy cuộc hôn nhân của mình nhạt phai, bạn có thể hành động để khơi dậy tình cảm với người bạn đời. Trong mọi tình huống, ta có thể sử dụng kiến thức và Động lực Nội tâm để thay đổi theo hướng tích cực. Theo một nghĩa nào đó, ta có thể đấu nối não bộ và tâm trí để kết nối năng lực lý luận và ra quyết định với nguồn năng lượng phát triển, nguồn sức mạnh bên trong ta – Động lực Nội tâm.
Trong chương trước, ta đã thấy rằng những biến đổi ở não theo tuổi tác giúp ta tiếp tục phát triển ở nửa đời về sau. Những thay đổi sinh lý cơ bản này cũng hậu thuẫn cho một loạt các yếu tố tâm lý then chốt dẫn đến sự thay đổi tích cực theo tuổi tác.
Nghiên cứu mở rộng cho thấy các vấn đề tâm lý lâu năm, như sự tức giận, bất an về xã hội, cảm giác tự ti, và lòng tự tôn thấp, không phải là khiếm khuyết bất biến về cá tính. Chúng có thể thay đổi, và thực tế tuổi tác có thể xúc tác tạo nên sự thay đổi đó. Một người trong gia đình có tính phản biện và nhạy cảm có thể giải tỏa không khí tiêu cực và dẫn dắt người thân đi theo hướng tích cực hơn. Bậc cha mẹ có thể học cách yêu thương và buông xả. Tính nhút nhát có thể khắc phục được, sự bốc đồng có thể chế ngự được và sự vô cảm có thể làm dịu đi.
Một số lý thuyết tâm lý truyền thống nhấn mạnh tầm quan trọng của “giải quyết khủng hoảng” trong quá trình sinh trưởng. Những người ủng hộ khẳng định rằng ta phải hoàn tất hoặc giải quyết đầy đủ từng bước phát triển để tiến sang bước kế tiếp. Nghiên cứu mới, gồm cả nghiên cứu của chính tôi về người lớn tuổi, cho thấy một bức tranh phức tạp hơn. (Các) giai đoạn có thể trồi sụt, chồng lấp và nối đuôi nhau theo cách không thể dự đoán do Động lực Nội tâm của ta tương tác với diễn biến cuộc sống. Bệnh tật hoặc sự thất bại, chẳng hạn, có thể tạm thời làm dừng sự tiến triển. Ta có thể cần “hoàn nguyên” trở lại mô thức hành vi trước đó, chẳng hạn như lệ thuộc vào người khác hoặc phải học lại các kỹ năng nhất định. Mặt khác, có vẻ ta không cần thiết phải giải quyết tất cả các vấn đề tâm lý trước khi chuyển sang trải nghiệm giai đoạn mới. Một số người chung sống dai dẳng với các rắc rối về quan hệ mà vẫn tiếp tục phát triển và thành đạt trong các lĩnh vực khác, như sáng tạo hoặc hoạt động xã hội.
Khi hiểu biết thấu đáo hơn về quá trình phát triển ở người trưởng thành, và được thúc đẩy phát triển một cách tự nhiên bởi Động lực Nội tâm, ta có thể đề ra chiến lược để cuộc sống năng động và thỏa mãn hơn. Tuổi trưởng thành không phải là đích đến hoặc đỉnh điểm của sự phát triển, cả về tâm lý lẫn thần kinh. Sự tiến hóa không ngừng của não bộ và bản ngã đã liên tục tạo điều kiện cho ta chủ động vạch ra định mệnh của chính mình.
Như ta đã thấy trong phần dẫn nhập, nhiều nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong tâm lý học đã xem sự tăng trưởng và phát triển đã hoàn thành về cơ bản ở cuối tuổi vị thành niên hoặc trạc ngoài hai mươi. Hai khoa học gia đầu ngành có nhiều ảnh hưởng nhất – Sigmund Freud và Jean Piaget đều giữ quan điểm này. Thậm chí cả nhà tâm lý học phát triển hiện đại lẫy lừng Erik Erikson cũng chỉ đề cập một giai đoạn sau khi trưởng thành, mà ông gọi là “thời kỳ sung mãn”. Chưa hết, không một giai đoạn nào của ông liên quan đến những phát hiện trong quá trình nghiên cứu não.
Erikson mô tả tám giai đoạn phát triển tâm lý xã hội và định nghĩa từng giai đoạn theo một vấn đề hoặc một xung đột tâm lý xã hội cần phải giải quyết:
Các giai đoạn theo vấn đề hoặc xung đột tâm lý xã hội của Erik Erikson
1. Sơ sinh | Sự tin tưởng đối lập với sự không tin tưởng |
2. Thời kỳ đầu thơ ấu | Sự tự chủ đối lập với sự xấu hổ, nghi ngờ |
3. Tuổi chơi đùa | Sự chủ động đối lập với mặc cảm |
4. Tuổi đi học | Sự chăm chỉ đối lập với sự thua kém |
5. Tuổi vị thành niên | Bản sắc đối lập với sự mơ hồ về bản thân |
6. Tuổi trẻ | Sự gắn bó đối lập với sự cách biệt |
7. Tuổi trưởng thành | Sự sáng tạo đối lập với sự trì trệ |
8. Tuổi dày dặn | Sự hoàn thành đối lập với sự thất vọng |
Erikson và các nhà tư tưởng kinh điển khác tin rằng ta trải qua lần lượt từng giai đoạn, hết giai đoạn này đến giai đoạn khác, và rằng các khủng hoảng hay thách thức của mỗi giai đoạn phải được chế ngự thì ta mới có thể chuyển sang giai đoạn tiếp theo. (Freud đưa cả giải pháp cho một số vấn đề về tâm sinh dục vào phác đồ phát triển của ông).
Đúng là quá trình phát triển lành mạnh có thể bị khựng bởi sự lạm dụng, bỏ bê, thiếu thốn hoặc chấn thương, dẫn đến tắc nghẽn một giai đoạn phát triển tâm lý chưa chín muồi. Việc không vượt qua được một số giai đoạn rất sơ khai, như thời kỳ học cách tin tưởng, có thể cản trở, hoặc gây khó khăn, cho nhiều giai đoạn “cao cấp” về sau, chẳng hạn như giai đoạn phát triển năng lực gắn bó. Nhưng quả là một sai lầm nếu xem quá trình phát triển như một hiện tượng tuyến tính, mà theo đó sự thất bại ở một bước phát triển này ắt sẽ không cho ta chuyển sang các bước khác. Vấn đề phức tạp hơn thế. Não bộ và tinh thần của con người linh hoạt và dễ thích ứng hơn so với những gì các lý thuyết sơ khai này nêu ra. Tôi đã thấy nhiều trường hợp người ta gặp phải những trải nghiệm đầu đời kinh khủng mà đầu óc vẫn sáng suốt, có những mối quan hệ lành mạnh và sống cuộc đời ổn thỏa. Điều này cho tôi thấy rằng trong các yếu tố định hình sự phát triển tâm lý có những năng lực sẵn có, sẽ tìm cách bộc lộ và vượt qua nghịch cảnh – Động lực Nội tâm mà tôi đã đề cập đến.
Tóm lại, các lý thuyết trước đây về phát triển không hẳn là sai, nhưng không trọn vẹn. Tình trạng này không hiếm trong khoa học. Lý thuyết tương đối của Einstein không có nghĩa là các lý thuyết trước đó của Newton về chuyển động và cơ học là sai, chỉ có điều chúng có giới hạn và không hoàn chỉnh. Các định luật của Newton áp dụng hoàn toàn ổn thỏa cho hầu hết mọi ứng dụng trên trái đất, nhưng nếu muốn làm việc ở quy mô cực độ về khối lượng, khoảng cách hoặc năng lượng, ta phải dùng các phương trình của Einstein. Sự phát triển con người cũng vậy. Nếu bạn quan tâm đến sự phát triển trong thời thơ ấu hoặc niên thiếu, lý thuyết của Erikson và các nhà tâm lý học khác hoàn toàn ổn. Nhưng nếu muốn biết về toàn bộ đời người và, đặc biệt, người trưởng thành tiếp tục phát triển ra sao, ta cần một mô hình mới, bao quát hơn – vượt ngoài quan niệm theo khuôn mẫu về sự phát triển con người.
Sau đây là ví dụ về một tình huống cuộc sống phức tạp hơn so với cách nhìn qua lăng kính các giai đoạn của Erikson.
Câu chuyện của Sally
Sally DeMarco, trạc gần 40, đến gặp tôi vì tất cả các mối quan hệ tình cảm của cô đều không thể đi đến hôn nhân. Cô lớn lên với một người cha mà công việc đòi hỏi ông phải đi công tác thường xuyên, mỗi lần thường hàng tuần cho đến hàng tháng trời. Lịch trình của ông không được sắp xếp trước, nên Sally không bao giờ biết khi nào ông lại đi. Giờ đây, trước ngưỡng cửa trung niên, cô nhìn lại các mối quan hệ của mình một cách ngậm ngùi và thấy có những điều bạn bè của mình nói đúng: Những người đàn ông cô bị cuốn hút đều luôn xa cách – về thể xác, tình cảm hoặc cả hai. Ví dụ, mối quan hệ quan trọng đầu tiên của Sally là với thông tín viên của một hãng thông tấn quốc tế. Anh liên tục đi công tác ở nước ngoài, ăn ngủ với công việc, và không muốn ổn định cuộc sống. Mối quan hệ tiếp theo của cô là với một người đàn ông đã có gia đình và cho biết sẽ bỏ vợ. Nhưng rõ ràng anh ta quan tâm nhiều hơn đến việc liên tục sửa chữa nhà cửa thay vì chấm dứt cuộc hôn nhân. Các mối quan hệ về sau cũng có những rào cản không thể vượt qua để tiến đến hôn nhân – những rào cản mà cô đã phần nào nhận thức được nhưng vẫn cố tình không xem trọng.
Giờ đây, trạc gần 40, Sally cảm thấy một sự thôi thúc từ bên trong muốn thay đổi. Cô nhận ra rằng việc mình bị hấp dẫn bởi những người đàn ông xa cách đến vô vọng có liên quan đến mối quan hệ của cô với người cha đầy xa cách. Nếu chỉ xét từ quan điểm “khủng hoảng” tâm lý xã hội, các vấn đề của Sally sẽ được quy về chỗ cô không giải quyết được khủng hoảng tâm lý xã hội giai đoạn 6 – sự gắn bó đối lập với sự cách biệt. Biện pháp trị liệu sẽ giúp cô giải quyết vết thương cũ và những hụt hẫng về tình cảm do chúng gây ra.
Thay vào đó, tôi thấy trong Sally một động lực sẵn có và ý chí phá vỡ mô thức cũ của bản thân, và đây là yếu tố chúng tôi hướng đến trong quá trình trị liệu. Cô quyết định thử một hướng trước đây cô chống báng – nhờ bạn bè giới thiệu cho mình những người đàn ông thích hợp, thay vì tự ý tìm một cách ngẫu nhiên. Cô cũng nhờ bạn bè chọn cho mình những đối tượng tiềm năng nào dường như không gặp trở ngại nào để đến với nhau. Hai năm sau, cô đã đính hôn với Mike, một doanh nhân thành công, góa vợ và chưa có con.
Mặc dù đúng là ở chừng mực nào đó, cách Sally chọn bạn trai bị ảnh hưởng một cách vô thức bởi sự thiếu vắng dai dẳng người cha, đặc tính này không đủ bao quát để giúp trị liệu. Xét theo lăng kính sự phát triển như tôi đã mô tả, Sally đã hành động theo Động lực Nội tâm tích cực của một giai đoạn phát triển mới trong đời, một giai đoạn cho phép cô lùi lại, dùng tư duy hậu hình thức để nhìn lại hoàn cảnh của mình theo cách khác. Cách nghĩ như vậy giúp cô có thể lựa chọn khác đi. Mặc dù bị ảnh hưởng xấu trong nhiều năm bởi mô thức tiêu cực của người cha và hệ quả tổn thương từ đó, thông qua động lực tích cực của giai đoạn phát triển mới này, cô đã điều chỉnh lại trong cuộc sống. Cô đã quyết tâm thoát khỏi lối mòn để đi tới một cách tích cực.
Khi làm được như vậy, Sally đã hé lộ cho thấy sự trỗi dậy của trí thông minh tiến hóa, vốn thường không hoàn toàn lộ diện cho đến đầu lứa tuổi trung niên. Tâm lý trị liệu có thể giúp người ta truy xuất trí thông minh tiến hóa của bản thân, và đây là điều đã giúp Sally. Giống như Sally, nhiều người trong chúng ta có những vấn đề đã bén rễ sâu xa, cần sự chú tâm và thôi thúc đầy tích cực và sáng tạo của Động lực Nội tâm để giải quyết.
Vai trò của cảm xúc trong trí thông minh tiến hóa
Như ta đã thấy trong chương trước, người lớn tuổi có cảm giác ít tiêu cực hơn, ít chú ý đến các kích thích cảm xúc tiêu cực hơn so với các kích thích cảm xúc tích cực, và ít nhớ những trải nghiệm cảm xúc tiêu cực hơn những trải nghiệm cảm xúc tích cực. Sự trưởng thành này liên quan đến những biến đổi ở trung khu cảm xúc chính của não, khối amiđan. Sự phát triển thần kinh này là nền tảng để ta kiểm soát cơn tức giận dễ dàng hơn và cải thiện khả năng giải quyết xung đột theo tuổi tác. Khi đối phó với xung đột, thanh thiếu niên và những người trẻ tuổi có xu hướng sử dụng các chiến lược hấn khích và thiếu chín chắn về tâm lý, một xu hướng cho thấy khả năng yếu kém hơn về kiểm soát xung động và tự nhận thức. Những người lớn tuổi hơn có thể tự điều tiết cảm xúc và phản ứng thận trọng hơn và có nhận thức cao hơn đối với bản thân và người khác.
Sự kiểm soát cảm xúc tốt hơn cũng có thể là kết quả của sự tự nhận thức tốt hơn. Ví dụ, bạn có thể nhận ra rằng môi trường làm việc cạnh tranh làm bạn dễ rơi vào trầm cảm. Nhận thức này có thể cho phép bạn chọn môi trường làm việc khác. Tương tự, khi biết rằng những nơi quá đông người, ít ai quen ai, làm cho bạn cảm thấy khó chịu và mờ nhạt, bạn sẽ loại trừ các sự kiện như vậy và chọn những dịp phù hợp hơn với sở thích.
Theo tuổi tác, sự cải thiện trí tuệ cảm xúc dạng này (một thành phần quan trọng của trí thông minh tiến hóa) có thể cực kỳ hệ trọng để có được sự thư thái trong tâm trí, cảm giác chu toàn và viên mãn, vốn là những thành quả ngọt ngào nhất của tuổi tác, như câu chuyện sau minh họa.
Ellis Daniels: Chọn lựa di sản tình thương
Ellis Daniels ưa độc đoán, cứng nhắc và cáu gắt. Ông lộ rõ tính khí hiếu chiến, không khoan nhượng với bất cứ ai bất đồng với mình. Trạng thái cảm xúc cực đoan này đã góp phần gây ra một trong những vết thương sâu sắc nhất cho bản thân ông: Sự ghẻ lạnh suốt 30 mươi năm của người con trai, David, giờ đây 51 tuổi.
Ellis là một luật sư nối nghiệp cha và ông nội của mình, và ông luôn luôn đinh ninh rằng David sẽ tiếp tục nối nghiệp theo truyền thống gia đình. Nhưng David phản kháng, gây ra sự đối đầu và oán giận lâu năm ở cả hai phía. Với bản tính nghệ sĩ và máu kinh doanh, anh ta mơ ước mở một nhà hàng phục vụ các món ăn đầy sáng tạo. Ellis kinh sợ, gọi những khát vọng của David là “phù phiếm” và “dị hợm”. Trước áp lực dữ dội từ bố, David đã nộp đơn vào trường luật và được nhận vào học. Ellis phấn khích lên kế hoạch mở một đêm tiệc mừng và trong thiệp mời gửi họ hàng và bạn bè, đã tự hào khoe về chàng luật sư tương lai thuộc thế hệ thứ tư của gia đình.
Nhưng David đã không dự đêm tiệc mừng chính mình. Sau đó, đối mặt với cha, David nói rằng anh đã quyết định không học luật mà theo đuổi giấc mơ của mình. Ellis đã nổi cơn lôi đình đến mức khước từ con. David, bị xúc phạm bởi những lời răn đe và dọa nạt, đã bỏ nhà đi và dùng tiền dành dụm của mình để mở nhà hàng.
Mười năm sau, nhà hàng của David khấm khá và anh mở tiếp cái thứ hai, rồi cái thứ ba. Bất chấp thành công của con, Ellis vẫn oán giận và khước từ mọi động thái nhằm hòa giải. Khi có con, hai vợ chồng David đã thu xếp để các con có dịp ở bên ông nội của chúng, nhưng David không hề đến thăm các cháu.
Trong thời gian chuẩn bị sinh nhật lần thứ 80, Ellis bắt đầu tự vấn về nỗi hiềm khích mấy mươi năm. Con gái Ellis, Darlene, nói rõ quan điểm của cô: “Bố lúc nào cũng là một người tròn đầy trách nhiệm, một luật sư tài ba và một người cha tuyệt vời”. Và cô hỏi, “Thế bố có thực sự muốn để lại, cùng với tiếng thơm, một nỗi oán hận ba mươi năm với đứa con trai duy nhất của bố không?”. Cô cho rằng ông có thể vinh danh tổ tiên theo cách khác, như kể chuyện về tiền bối trong hồi ký, chẳng hạn, và có thể khơi gợi cảm hứng cho các luật sư tương lai trong dòng họ.
Ellis thừa nhận rằng, theo thời gian, ông đã cảm thấy bớt oán giận về sự lựa chọn của David. Một thời gian ngắn sau, khi David mời gia đình đến dự lễ tốt nghiệp của con gái, Ellis đã có một quyết định mới. Ông xuất hiện, và cái bắt tay mà ông dành cho con trai đã biến thành một vòng tay thắm tình phụ tử và khởi đầu cho một giai đoạn mới trong quan hệ của hai cha con và của cả gia đình.
Ellis đã đáp lại Động lực Nội tâm khi chiêm nghiệm, hồi tâm và đối mặt với những xung đột chưa được giải quyết. Ông đã thông minh hơn về mặt tiến hóa sau nhiều năm, và điều đó bao gồm cả việc bớt phản ứng theo cảm xúc và cởi mở hơn để thay đổi quan niệm về sự lựa chọn của con trai. Một sự hòa giải trông đơn giản như của Ellis đòi hỏi biết bao thay đổi, một sự tái định hướng xuất phát từ việc thay đổi hệ giá trị cá nhân, sự trưởng thành về cảm xúc và kỹ năng giải quyết xung đột.
Bốn giai đoạn tiềm năng của con người trong nửa đời sau
Ta đã thấy rằng tất cả chúng ta đều được phú cho một chùm xung lực bên trong, mà tôi gọi là Động lực Nội tâm, để thúc đẩy sự phát triển và cung cấp năng lượng để ta chuyển biến một cách tích cực. Cách ta trải nghiệm và bộc lộ Động lực Nội tâm này thay đổi theo tuổi tác và bị ảnh hưởng bởi sự phát triển não bộ không ngừng tiếp diễn cũng như kinh nghiệm sống tích lũy được. Trong nghiên cứu của mình, tôi đã phát hiện ra một số quy tắc và mô thức chung của sự tăng trưởng tâm lý và tiến hóa ở người trưởng thành, mà tôi gọi là bốn giai đoạn phát triển của nửa đời sau. Các giai đoạn này, ngoại trừ đôi lúc, thường cách biệt về thời gian; đôi khi chúng cùng tồn tại, giao nhau, và tương tác với nhau. Mỗi giai đoạn có tiềm năng đầy bất ngờ để tăng trưởng tích cực, như chúng ta sẽ thấy trong hai chương tiếp theo.