NỬA ĐỜI VỀ SAU:
GIAI ĐOẠN III VÀ IV
Trên đời này, không phải những gì ta giành được, mà những gì ta từ bỏ, mới khiến ta giàu có.
• Henry Ward Beecher
Giai đoạn III: Đúc kết
Giai đoạn thứ ba trong bốn giai đoạn của nửa đời sau thường xảy ra vào trạc ngưỡng thất tuần, mặc dù cũng có thể xuất hiện dưới hình thức khác cả thập kỷ trước đó hoặc sau đó. Nó thường đến sau giai đoạn tái đánh giá ở tuổi trung niên và cảm thức khai phóng mà tôi đã bàn trong chương trước. Tôi gọi giai đoạn thứ ba này là “đúc kết” vì trong giai đoạn này người ta có ước muốn cấp bách hơn nữa phải tìm được ý nghĩa lớn lao trong câu chuyện cuộc đời mình thông qua một quá trình đánh giá, đúc kết và đền đáp. Trong giai đoạn đúc kết, ta bắt đầu cảm thấy mình như “người bảo tồn văn hóa” và thường muốn đóng góp nhiều hơn cho mọi người bằng trí tuệ và của cải đã tích lũy được. Tôi đã thấy vô số người trong giai đoạn này hành động vì muốn đáp trả, thông qua hoạt động thiện nguyện, hoạt động cộng đồng và từ thiện. Động lực Nội tâm của giai đoạn đúc kết thường được thể hiện một cách đầy sáng tạo bằng các câu chuyện cá nhân, hồi ký, và tự truyện nhằm tóm lược và ôn lại đời mình. Trong nghiên cứu về hưu niên mà tôi đang tiến hành, phần lớn các đối tượng tham gia ở độ tuổi 70 và 80 đều đang viết hồi ký, kể chuyện bằng lời, soạn album ảnh, viết gia phả hoặc dùng các hình thức khác để ôn lại cuộc đời. Một ví dụ nổi tiếng về sự bày tỏ theo dạng này là cuốn hồi ký của Katharine Graham, cựu chủ bút của tờ Washington Post. Đó cũng là cuốn sách đầu tay mà bà viết năm 79 tuổi. (Cuốn sách đã đoạt giải Pulitzer năm 1998).
Tôi tin rằng nhu cầu viết tự truyện trong giai đoạn này được thôi thúc bởi ý thức khôn nguôi về cái chết của bản thân và bởi một số thay đổi sinh lý trong não mà ta đã bàn trong chương 1. Đặc biệt, tôi thấy dường như việc tận dụng cả hai bán cầu não cho phép biểu đạt trọn vẹn thông tin và cảm xúc đến mức tối ưu trong chuyện đời của một người. Tôi nghĩ không phải hoàn toàn ngẫu nhiên mà những người lớn tuổi lại thích kể chuyện đời họ đến vậy hoặc việc ôn lại cuộc đời lại quá phổ biến ở độ tuổi này. Chắc chắn thời gian rảnh rỗi dư dật cũng đóng một vai trò ở đây – công việc viết lách hoặc thậm chí sắp xếp mọi thứ, như album ảnh gia đình, đòi hỏi thời gian và công sức mà những người trẻ tuổi đang phải chăm con và theo đuổi sự nghiệp ắt khó có được. Nhưng thời gian rỗi của người ta có thể được dành cho nhiều thứ khác. Tại sao lại có một sự thôi thúc, dường như đại trà, phải tổng hợp và trao truyền cho những người xung quanh?
Hiện chưa có câu trả lời nào dành cho câu hỏi này, nhưng nghiên cứu cho thấy ít nhất một phần nguyên do có thể xuất phát từ các hồi hải mã, tức các cấu trúc não song đôi rất hệ trọng trong việc hình thành và truy xuất trí nhớ và cũng giúp liên kết phần “não tư duy” – tức vỏ não mới – với não “cảm xúc”. Các nghiên cứu gần đây của Eleanor A. Maguire và Christopher D. Frith, thuộc Viện Thần kinh học tại Đại học Tổng hợp, London, đã phát hiện ra một sự khác biệt rõ rệt khi kích hoạt hồi hải mã giữa người trẻ và người già khi họ hồi tưởng những kỷ niệm trong đời. Những người lớn tuổi sử dụng cả hồi hải mã bên trái và phải trong các tác vụ, trong khi những người trẻ tuổi sử dụng chủ yếu phần bên trái. Những phát hiện này đều nhất quán với kết quả từ những cuộc nghiên cứu các vùng não khác, vốn cho thấy người lớn tuổi vận dụng cả hai bán cầu não nhiều hơn.
Tôi đưa ra giả thuyết rằng việc sử dụng cả hai hồi hải mã để hồi tưởng các biến cố trong đời sẽ tạo ra một trải nghiệm sống động hơn, phong phú hơn vì khi ấy não khai thác nguồn dữ liệu rộng hơn. Các năng lực thiên về trực giác, chỉnh thể và phi ngôn ngữ của não thường nằm ở bán cầu não phải, có thể giúp nhiều cho sự hồi tưởng. Việc sử dụng cả hai hồi hải mã cũng khiến cho sự hồi tưởng tự thân nó là một hoạt động sống động hơn và thú vị hơn. Tôi nghĩ rằng thật ra não bộ thích thú được dịp trình bày tự truyện ở nửa đời về sau – và làm điều đó bằng cả hai cỗ động cơ. Tôi thấy tự truyện hoặc – ở quy mô bao quát hơn – quá trình và hành vi đúc kết giống như một mẩu sô-cô-la đối với não ở nửa đời về sau – một hoạt động xa hoa.
Đi đôi với sự thôi thúc phải tổng kết và tóm lược cuộc đời chính là ước muốn được đáp trả cho gia đình, cộng đồng hoặc thế giới này nói chung. Trong nghiên cứu về hưu niên của tôi, hầu như mọi người ở tuổi 70 đều tham gia một hình thức hoạt động tình nguyện, một đặc điểm vẫn còn rõ nét ít nhất trong suốt một thập kỷ tiếp theo. Điều này không đơn giản là do người lớn tuổi không có sự lựa chọn về thù lao. Như ta sẽ thấy trong chương 7, người lớn tuổi có nhiều cơ hội hơn bao giờ hết để làm việc nếu họ muốn. Tuy nhiên, nhiều người lớn tuổi đã tình nguyện. Trong một nghiên cứu cấp quốc gia của AARP năm 2003, chẳng hạn, 40% những người tham gia khảo sát ở tuổi 70 trở lên đều tham gia các hoạt động tình nguyện chính thức thuộc các tổ chức; nếu tính cả các hoạt động tình nguyện không chính thức không thuộc các tổ chức, tỉ lệ tăng đến 80%.
Tham gia từ thiện một cách bài bản là hoạt động phổ biến ở những người đang ở vào giai đoạn đúc kết. Khi những người tham gia cuộc nghiên cứu về hưu niên được hỏi, “Điều gì mang đến cho quý vị cảm giác về ý nghĩa và mục đích trong cuộc sống?”, một trong những câu trả lời phổ biến nhất là sự đóng góp để giúp mọi người.
Ông chú của vợ tôi, Harold Alfond, xuất thân từ gia đình nhập cư nghèo gốc Nga, đã tự lập hầu như từ tay trắng, làm việc chăm chỉ và cuối cùng lập nên hãng giày Dexter ở Maine. Về sau ông đã sáng lập ra chuỗi cửa hàng dạng factory outlet[1] và trở thành người đồng sở hữu đội bóng Boston Red Sox. Khi tôi phỏng vấn ông ở tuổi 89, rõ ràng ông đang ở giai đoạn đúc kết, đóng góp cho cộng đồng và xã hội những khoản quyên góp hào phóng và giảng dạy về các phương pháp hoạt động từ thiện để đạt hiệu quả. Ông bảo tôi rằng “điều quan trọng là dạy về cách trao đi”, và ông muốn các khoản hiến tặng của ông “là hình mẫu cho các con, cháu, chắt và các nhà hảo tâm khác”. Bốn người con của ông đều đã trở thành các nhà từ thiện. Tại thời điểm tôi phỏng vấn, Harold đã quyên tặng hơn 100 triệu đô-la – mà hơn một nửa số đó được trao đi từ lúc ông 80 tuổi. Bày tỏ cảm xúc chung trong giai đoạn này, ông nói, “Tôi muốn xứ sở này và thế giới này trở nên một chốn tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người”.
Quá trình đúc kết cũng có thể khiến người ta phải đối đầu với những ước mơ chưa được thực hiện và khép lại những mâu thuẫn chưa được giải quyết. Áp lực phải đương đầu giải quyết các vấn đề này có thể rất lớn trong giai đoạn này. Vào đầu những năm 1960, bác sĩ tâm thần và lão khoa từng đoạt giải Pulitzer, Robert Butler đã đưa ra khái niệm “ôn lại dòng đời” để áp dụng trong trị liệu. Butler cho biết nét chính của quá trình ôn lại dòng đời là “sự tái nhận thức không ngừng về các trải nghiệm quá khứ và đặc biệt là sự trỗi dậy của các xung đột chưa được giải quyết, mà có thể được xét lại và dung hòa. Nếu được dung hòa, nó có thể mang lại ý nghĩa mới mẻ và lớn lao cho cuộc sống của bản thân”.
Ghi lại chuyện đời của một người là biện pháp được đề cao và thừa nhận rộng rãi trong giới nghiên cứu hoặc giới điều trị người lớn tuổi. Các nhà tâm lý học đã biết rằng việc ôn lại cuộc đời là một phần của tiến trình lão hóa bình thường. Quá trình ôn lại có thể dẫn đến tự nhận thức và tự nhìn nhận. Công trình tiên phong của Butler giờ đây được khai thác theo nhiều hướng. Việc ôn lại cuộc đời có thể diễn ra theo nhóm hoặc một cách riêng tư bằng viết lách, tác phẩm nghệ thuật, nhiếp ảnh hoặc bất kỳ hình thức biểu đạt nào. Điểm đáng nói là sự đúc kết, dưới mọi hình thức, đều là một trải nghiệm đầy kích thích, khơi gợi sức sống.
Các câu chuyện về giai đoạn đúc kết
Chẳng bao giờ quá muộn để giải quyết xung đột từ những ước mơ chưa thành và công việc còn dang dở. Đôi khi giải quyết có nghĩa là hiện thực hóa những ước mơ ấy. Hãy xem xét những câu chuyện sau đây:
Cuộc minh chứng của Frank Bourgin. Ước mơ không thành của Frank Bourgin trĩu nặng trong ông hơn bốn thập kỷ. Bốn mươi lăm năm trước, ở độ tuổi ba mươi, luận án tiến sĩ của ông đã bị Đại học Chicago bác. Luận án của ông bênh vực các chương trình xã hội mới mẻ khi ấy của Franklin D. Roosevelt trước các cáo buộc cho rằng chúng vi hiến. Nếu muốn chất vấn sự khước bác này, ông phải ghi danh trở lại với tư cách nghiên cứu sinh toàn thời gian. Nhưng Frank đã cưới vợ và có con; việc học lại không phải là một sự lựa chọn khả thi. Ông tìm được việc làm và xếp luận án của mình vào trong rương. Nhưng Frank không bao giờ nguôi cảm giác bất công khi bị bác luận án. Năm 1987, vào dịp kỷ niệm 200 năm Hiến pháp Hoa Kỳ, ông đã quyết định thử lại một lần nữa. Ông gửi một bản tóm tắt luận án đến nhà sử học Arthur Schlesinger Jr., người vừa xuất bản một cuốn sách đề cập một số điểm giống với những gì Frank đã nêu ra mấy thập niên trước.
Nhiều tuần sau, Schlesinger gửi thư hồi âm. Frank Bourgin đã khóc khi đọc thư. Schlesinger ca ngợi công trình của ông mang tính tiên phong và là một “công trình hết sức độc đáo”. Ông cũng cho biết sẽ hối thúc khoa Chính trị học tại Đại học Chicago xem xét lại công trình này. Khoa này đã xúc tiến và một năm sau đó, Frank đã ngồi trên một cỗ xe chạy điện để tiến lên sân khấu nhận bằng tiến sĩ ở tuổi 77.
Verdi: Xóa khoảng cách 50 năm. Nhiều người kinh ngạc khi biết rằng Giuseppe Verdi đã 80 tuổi khi sáng tác vở opera nổi tiếng Falstaff. Nhưng tại sao Verdi lại chọn soạn Falstaff thay vì một vở opera khác? Cơ chế của giai đoạn đúc kết cho ta một sự lý giải. Hóa ra Verdi có một sự dang dở suốt hơn nửa thế kỷ cứ khiến cho ông day dứt.
Năm 25 tuổi, Verdi sáng tác một vở opera hài hước – Un Giorno di Regno (Một ngày làm vua). Vở này công diễn năm 1840 tại nhà hát lừng danh La Scala nhưng được đón nhận lạnh nhạt đến mức đã bị ngưng sau một đêm diễn. Thất bại này hết sức nặng nề vì Verdi vừa mất vợ và, một năm trước đó, đã mất cả con trai. Ông thề sẽ không bao giờ viết một vở opera nào nữa, nhưng rồi, với sự khích lệ kiên trì của giám đốc nhà hát La Scala, Verdi cuối cùng đã viết vở Nebucco, mà sự thành công của nó đã đẩy Verdi vào nghề suốt nhiều thập niên.
Năm mươi lăm năm sau ngày thất bại với Một ngày làm vua, trong giai đoạn đúc kết và ở trên đỉnh danh vọng, Verdi đã nhìn lại công việc dở dang của mình – sự thất bại trong việc sáng tác opera hài. Ông quyết định đã đến lúc phải thử lại. Kết quả là Falstaff, một trong những vở opera xuất sắc nhất. Và, tiếp nối duyên xưa, vở diễn đã ra mắt tại La Scala.
Đúc kết tập thể. Jim Grenquist, một đối tượng tham gia cuộc nghiên cứu hưu niên của tôi, đã kể về một nhóm người cao tuổi ở quê nhà của ông tại Malden, Massachusetts, đã tụ lại suốt một thập kỷ qua để chia sẻ những câu chuyện đời của họ. (Những câu chuyện này đặc biệt có ý nghĩa với tôi vì cô của tôi, Rose Litchman, cũng sống tại Malden cùng thời với nhóm người này).
Nhóm này khởi đầu với sáu người lớn tuổi sinh trưởng ở hai vùng tại Malden-Linden và Maplewood. Họ nắm được những câu chuyện lịch sử và văn hóa phong phú thời những năm 1930 và 1940, và muốn lưu giữ chúng. Họ cũng phát hiện ra rằng việc chia sẻ những câu chuyện với đồng hương làm khơi gợi thêm nhiều ký ức.
Năm tháng trôi qua, niềm hứng thú về dự án này lan rộng và cuối cùng có đến hơn 500 người đóng góp hồi ức. Một thành viên của nhóm, William T. J. “Bill” Dempsey, sinh năm 1924, đã tình nguyện chuyển thể những lời kể phong phú này thành sách. Nhiều tập sách đã được xuất bản bằng việc dùng máy tính để bàn. Lời nói đầu của tập sách đầu tiên có đoạn như sau, nêu bật cả động lực và giá trị của giai đoạn đúc kết: “Cuốn sách hồi ức này của chúng tôi về thời sinh trưởng tại Linden là ký ức không chỉ đối với bản thân chúng tôi mà với cả con cái và các cháu; và với nhiều thiếu nhi đáng yêu trong cộng đồng ngày nay, cuốn sách có thể trở thành một phần di sản đáng tự hào”.
Giai đoạn IV: Encore
Giai đoạn encore thường bắt đầu vào cuối độ tuổi 70, trở nên rõ nét hơn trong độ tuổi 80 và kéo dài đến tận cuối đời. Tôi xem đây là lúc não biểu hiện sự sáng tạo không ngừng và hun đúc Động lực Nội tâm để khiến ta suy nghiệm và ước muốn được dấn bước và tôn vinh. Tôi mượn từ encore trong tiếng Pháp theo nghĩa “một lần nữa” và “vẫn tiếp tục”. Giai đoạn này không phải là một vũ điệu bế mạc mà giống như một chuỗi biến tấu của vô số khúc nhạc đã nảy sinh trong đời.
Bất chấp bệnh tật hay những bó buộc về thể xác, trong đoạn đời này người ta vẫn bị thúc giục bởi những lực tác động mạnh mẽ, như ham muốn có sự yêu thương, người đồng hành, tính tự quyết, quyền tự chủ và muốn đền đáp. Một mặt, giai đoạn encore này hàm chứa các khía cạnh của ba giai đoạn kia – ta vẫn xét lại cuộc đời mình, vẫn cảm nhận được sự giải thoát khỏi những ràng buộc trước kia, và vẫn có thể khát khao đúc kết cuộc đời mình và thể hiện sự suy nghiệm đó dưới một hình thức nào đó. Trong đoạn đời này, Động lực Nội tâm có thể bộc lộ bất ngờ. Đây là lúc có thể xuất hiện những nhân sinh quan hoàn toàn mới – và dù người lớn tuổi trong giai đoạn này đang sống theo những nếp cũ rích về hành vi và quan điểm, họ cũng có khả năng “đột biến” một cách tự phát và kỳ lạ.
Ở độ tuổi 105 và 103, Bessie và Sarah Delaney, hai chị em người Mỹ gốc Phi từng sống cả đời bên nhau, đã viết cuốn Chị em nhà Delany: Trăm năm đầu (The Delaney Sisters: The First Hundreds), một cuốn đồng tự truyện minh họa cả giai đoạn đúc kết và encore. Khi Bessie qua đời hai năm sau, Sarah đã viết một cuốn nữa: Tự lực (On My Own).
Giai đoạn encore thường được hòa trộn góc nhìn hài hước về thực trạng cái chết và các khía cạnh đôi khi đầy ức chế của tuổi già. Hãy xem những màn biểu diễn của diễn viên hài trứ danh George Burns.
Khi Burns 97 tuổi, tôi đã phỏng vấn ông cho một loạt thông điệp cộng đồng về tuổi cao niên. Khi tôi hỏi ông làm thế nào để thích nghi với tuổi cao niên, ông cất lời bông đùa, “Giờ thì tôi xin khán giả vỗ tay trước, nhỡ đâu”. Ông vẫn không ngừng nhận được những tràng pháo tay cho đến cuối đời khi 100 tuổi, bởi khả năng mang lại sự bất ngờ cho khán giả. Khi tôi hỏi, “Bác sĩ nói gì về thói quen hút thuốc và uống rượu của ông?”. Burns đã đáp không đắn đo: “Bác sĩ của tôi chết rồi”.
Toàn bộ cốt lõi của giai đoạn encore là sức sống – sức sống về tinh thần, bởi không phải lúc nào cũng từ thể xác. Tôi nhớ lại những dòng thơ nổi tiếng của Dylan Thomas:
Chớ nhẹ bước lẩn vào đêm thanh,
Tuổi già hãy bừng cháy lúc cuối ngày.
Điều quan trọng cần nhớ là thậm chí vào lúc cuối đời, não vẫn giữ nguyên những năng lực then chốt. Nói chính xác hơn thì một số chức năng trí óc suy giảm theo tuổi tác, nhưng năng lực học tập luôn duy trì, và độ sâu của trải nghiệm đã được mã hóa trong não bộ lớn tuổi là không gì thay thế được. Sợi nhánh mới, khớp thần kinh mới và thậm chí cả tế bào thần kinh mới vẫn tiếp tục sinh sôi – đặc biệt khi người lớn tuổi tích cực tham gia vào các hoạt động kích thích thể chất hoặc tinh thần.
Không chỉ bản thân não bộ vẫn dẻo dai (miễn sao các bệnh mãn tính hoặc thoái hóa không tác động), mà tâm trạng và cảm xúc cũng vẫn có thể sung mãn, ngay cả khi đối mặt với các vấn đề thể chất nghiêm trọng. Đây là một tính năng nổi bật của giai đoạn encore – một sự dấn bước đầy khôn ngoan trong cuộc sống bất chấp trở ngại. Những người rất lớn tuổi vẫn có thể trải nghiệm niềm vui và sự hài lòng sâu sắc, nhất là trong mối quan hệ với gia đình và bạn đời. Các nhà nghiên cứu tại Đại học Tiểu bang Georgia ở Atlanta đã xác nhận điều này. Trong một nghiên cứu, các nhà khoa học đã tìm kiếm sự khác biệt về kỹ năng xử lý khó khăn và sự hài lòng với cuộc sống ở các nhóm trung niên, trẻ tuổi và cao tuổi. Những người tham gia đều khỏe mạnh và năng nổ trong cộng đồng. Người ta không thấy sự khác biệt đáng kể nào ở 11/12 tình huống, hoặc về hiệu quả tổng thể. Mức độ hài lòng với cuộc sống cũng tương đương nhau ở cả ba nhóm tuổi. Kết quả này cho thấy ở những người khỏe mạnh, nhóm cao tuổi xử lý ít ra vẫn đạt hiệu quả ngang với nhóm trẻ tuổi, dù họ thường phải đối mặt với bệnh tật hoặc sự mất mát dưới dạng nào đó. Mức độ hài lòng với cuộc sống tương đối cao cũng cho thấy khả năng phục hồi tâm lý và sức chịu đựng của người lớn tuổi.
Nhiều nghiên cứu khác đã xác nhận các phát hiện này – thậm chí ở những người không khỏe mạnh. Điểm mấu chốt: Theo tuổi tác, con người trở nên thích ứng tốt hơn với hoàn cảnh. Bất kể tình trạng sức khỏe, người lớn tuổi thường được chuẩn bị tốt hơn – cả về độ hài lòng với cuộc sống và khả năng đối phó – để đối mặt với sự thăng trầm do tuổi tác. Để hiểu tại sao mức độ an lạc lại gia tăng hoặc ổn định khi về già – thay vì suy thoái không ngừng – các nhà nghiên cứu thường liên hệ đến các phát hiện cho thấy tiến trình lão hóa đi kèm với nhiều cảm xúc tích cực hơn và ít cảm xúc tiêu cực hơn. Như ta đã thấy trong chương 1, những phát hiện này có thể liên quan đến “độ chín” của khối amiđan, trung tâm xử lý cảm xúc của não bộ. Với những thay đổi sinh lý này, tôi muốn nói thêm rằng Động lực Nội tâm đã tác động tích cực trong giai đoạn này, không ngừng tiến hóa để ta tăng trưởng và phát triển.
Những xu hướng này lộ rõ cả ở những người sống đến trên trăm tuổi. Trong nghiên cứu về những người sống trên trăm tuổi, trong chuyên đề Sống đến 100 tuổi (Living to 100), Thomas Perls cho biết: “Những người trăm tuổi không bị sa sút kéo dài và đều đặn về sức khỏe. Khoảng 95% những người trăm tuổi của chúng tôi khỏe mạnh về thể chất và độc lập về nhận thức khi bước vào độ tuổi 90, với tỉ lệ bệnh tâm thần và trầm cảm ở mức thấp... Những người trăm tuổi thường có sức khỏe tốt gần như cả đời, với chỉ một đợt suy giảm nhanh trước khi chết”. Đây là một tin mừng, đặc biệt từ khi nhóm tuổi tăng nhanh nhất là nhóm 100 tuổi, và nhiều người cứ sợ rằng sống lâu đến thế có nghĩa là sống trong bệnh tật kéo dài trước khi chết.
Một đối tượng tham gia trong nghiên cứu của Perls, Dirk Struik, là người tiêu biểu cho sức sống trăm năm. Struik là một giáo sư tại MIT. Ở tuổi 100, ông đã về quê hương mình ở Hà Lan để giảng bài và thăm họ hàng. Năm 101 tuổi, ông đăng bài viết về một khái niệm mới gọi là tộc toán học (ethnomathematics) và viết tự truyện. Giáo sư Struik vẫn đang nghiên cứu, tư duy, suy nghiệm về các khái niệm cũ và học hỏi những tư tưởng mới khi qua đời ở tuổi 106 vào năm 2000. Ông và những người sống trăm tuổi khác thực hành theo bản năng những gì mà nghiên cứu về lão hóa đã cho thấy: Học hỏi cái mới và tích cực hoạt động trí óc là chìa khóa để có sinh lực tinh thần.
Tôn vinh giai đoạn encore
Những cuộc đoàn tụ và tôn vinh của gia đình và cộng đồng có thể là chất kết dính hệ trọng về mặt xã hội trong giai đoạn này. Những “người lớn tuổi nhất” thường gieo cảm giác về ước vọng và năng lực ở những người trẻ tuổi cũng như sự đam mê và hứng thú với cuộc sống. Hiệu ứng này đã được người dẫn chương trình truyền hình thời tiết Willard Scott vận dụng trong chiến dịch quốc gia kêu gọi nêu danh những người sống trăm tuổi ở tiết mục Chương trình Hôm nay. Những lời nêu danh công khai đó đã khiến hàng triệu người không ngừng phát huy trào lưu mừng thọ người cao niên.
Tôi thường cảm thấy khâm phục, nể trọng và tò mò về các đối tượng lớn tuổi nhất tham gia nghiên cứu của tôi. Tôi nhớ một chuyện cách đây hơn mười năm. Tôi được yêu cầu thực hiện một cuộc phỏng vấn công khai với một cụ trăm tuổi tại Trung tâm Cao niên Huffington ở Houston. Mildred Horton vừa tròn 100, và bà cụ nổi tiếng là một người hoạt ngôn. Tối hôm đó, Mildred bước lên sân khấu trước hàng trăm người. Bà mặc một chiếc váy in hoa màu xanh pha xám kiểu cọ với thắt lưng và áo khoác hờ không cài cúc màu trắng thanh nhã, dùng một chiếc khung tập đi nhỏ gọn và thanh lịch. Bà ngồi trên ghế đối diện tôi. Bắt đầu cuộc phỏng vấn, trước tiên tôi cảm ơn bà đã dành thời gian trò chuyện với tôi và khán giả. Bà đáp rằng mình thường đánh bài vào buổi tối này, và không dễ khi phải xáo trộn lịch trình giao lưu đầy bận rộn, nhưng bà cảm thấy đây là việc quan trọng phải làm. Câu nói hầu như đã gây được sắc thái hài hước cho buổi tối.
Tôi cất lời, “Tôi phải hỏi bà một câu mà tôi ngờ rằng bà đã được hỏi nhiều lần, nhưng nhiều người vẫn thích nghe câu trả lời của bà: Cảm giác mình được 100 tuổi ra làm sao?”. Không chút đắn đo, bà đùa, “Tôi chẳng thấy chút thay đổi nào cả so với lúc tôi được 99 tuổi”.
Trong cuộc phỏng vấn, bà đã nói về niềm đam mê giúp đỡ người khác, mà lúc ấy tập trung vào các gia đình và trẻ em ở Bosnia đang gánh chịu cuộc nội chiến. Trong suốt buổi tối, Mildred đã cuốn hút khán giả với một sự tinh anh, trí tuệ và óc hài hước mà tôi đã nhiều lần thấy được ở những người ở vào giai đoạn cuối đời.
Những câu chuyện encore
Nhiều năm trước, tại một hội nghị về sự sáng tạo và tuổi cao niên ở Santa Fe, tôi đã dự một triển lãm tác phẩm dự thi của các họa sĩ lớn tuổi. Một đồng nghiệp dặn tôi chớ bỏ qua các tác phẩm điêu khắc của Beatrice Pearse nên tôi đã tìm xem. Beatrice đang đứng cạnh các tác phẩm điêu khắc chim cú của mình, mà trông bà cũng giống một tác phẩm khi choàng một chiếc áo khoác nhiều màu bên ngoài một chiếc váy dài màu đen. Bà chào tôi bằng một nụ cười thân thiện và đôi mắt sáng long lanh.
“Những gì anh nói trong cuộc thuyết trình thật là hay”, bà cất lời. “Vâng, tôi thấy rõ ràng bà và các tác phẩm đã minh chứng cho ý tôi về sự phổ biến và tiềm năng thể hiện sức sáng tạo theo tuổi tác”, tôi đáp lời.
“À, tôi là một nghệ sĩ chưa lâu”, bà phân bua. “Cả đời tôi theo nghề luật, và mãi đến năm 94 tuổi tôi mới bắt đầu điêu khắc. Tôi chẳng biết mình đã làm gì mất 94 năm trước đó!”.
Đáng chú ý, Beatrice bị suy giảm thị lực nghiêm trọng đến mức bà bị mù theo quy định về pháp lý. Bà kể rằng mình lớn lên ở một trang trại và bị cuốn hút bởi hình dáng và âm thanh của chim cú lợn. Những hình ảnh ấy đã khắc ghi không phai mờ trong tâm trí bà. Khi chợt quyết định thử tài điêu khắc ở tuổi 94, bà phát hiện ra một nỗi đam mê khi chạm tay vào đất sét. Bà nhớ những con cú và thấy mình có thể mường tượng chúng rõ mồn một trong tâm trí đến mức có thể chuyển tải những đường nét ấy thành tác phẩm điêu khắc. Chẳng mấy chốc bà bắt đầu trưng bày tác phẩm, nhận được phản hồi tích cực và được công nhận.
Khoảng bốn năm sau khi gặp Beatrice, tôi nhận được thư của gia đình bà. Họ báo tin rằng bà đã qua đời nhưng vẫn tiếp tục điêu khắc cho đến một tuần trước khi chết. Câu chuyện của Beatrice nhắc tôi nhớ về Beethoven, với một số tuyệt tác hoành tráng nhất được sáng tác sau khi ông bị điếc. Beatrice bị mất thị lực nhưng vẫn tiếp tục hình dung sắc nét về chim cú lợn và những gia súc khác. Câu chuyện Beatrice chứng tỏ rằng những mất mát tất yếu đi cùng với tuổi tác không nhất thiết gây ra khủng hoảng hoặc khiến người ta lùi bước trước cuộc sống.
Những thuộc tính của giai đoạn encore như sự dấn bước và tôn vinh bất kể mất mát cũng được minh họa trong câu chuyện đời của chính tôi. Mẹ tôi, Lillian Cohen, đã 84 tuổi khi cha tôi qua đời với căn bệnh Alzheimer, sau cuộc hôn nhân dài gần 60 năm. Ba năm sau, bà quyết định chuyển đến một căn hộ riêng ở một khu có điều dưỡng trợ giúp tại cùng thành phố với em trai tôi. Bà muốn mang theo cây đàn piano cũ đã gắn bó từ tấm bé, mặc dù bà đã ngừng chơi đàn từ khi cha tôi ốm nặng. Chiếc đàn piano nặng khoảng 600 cân đã được chuyển vào trong căn hộ mới.
Trải nghiệm encore của bà là trở lại chơi piano sau hơn 5 năm. Những người láng giềng của bà đều thích tiếng đàn vang lên sau các bức tường của căn hộ, và một người trợ lý của tòa nhà đã nhờ bà đánh đàn trong đám cưới của cô ấy. Phấn khích với lời mời này, mẹ tôi đã hân hoan nhận lời.
Sau đó, một cơn đột quỵ khiến mẹ tôi khó theo đuổi nhiều sinh hoạt lúc trước và cướp đi của bà một phần – nhưng không phải tất cả – ký ức mà bà nâng niu. Tuy nhiên, bà vẫn hoạt động hết sức mình. Bà vẫn hoàn toàn cảm nhận được trọn vẹn niềm vui cuộc sống. Vào đúng tháng bà bị đột quỵ, đứa chắt đầu tiên của bà – bé gái Ruby – đã chào đời, khiến mẹ tôi tràn ngập niềm vui. Không lâu sau đó, gia đình tôi tụ tập để mừng sinh nhật thứ 90 của mẹ tôi. Đây đúng là một dịp đoàn tụ gia đình điển hình của giai đoạn encore, một cơ hội để gắn bó, hồi tưởng lại các kỷ niệm chung, dành thời gian ở bên nhau, và tỏ lòng tôn kính bậc trưởng thượng trong gia tộc. Trong bữa tiệc, mẹ tôi đã bế Ruby trên tay suốt một giờ đồng hồ và Ruby dường như hoàn toàn hài lòng được ở trong vòng tay của bà.
Câu chuyện của Anna
Anna Franklin vừa tròn 100 tuổi. Bà sống trong một khu cư xá phức hợp công ích, một trong nhiều nơi tôi đến thăm trong quá trình nghiên cứu về tuổi cao niên. Bà đã nghe kháo rằng tôi là bác sĩ tâm thần và ngỏ ý hỏi liệu tôi có thể đến thăm bà. Do tò mò, một hôm tôi đã tìm đến căn hộ của bà và gõ cửa.
Bà ra mở cửa mà không dùng khung tập đi hay chống gậy, vừa mỉm cười vừa chào tôi. Sau một lúc vừa chuyện trò vừa dùng trà và bánh bà mới nướng, tôi hỏi tại sao bà muốn gặp tôi. Bà nở một nụ cười dịu dàng và tinh nghịch.
“À, tôi một trăm tuổi rồi mà chưa bao giờ gặp bác sĩ tâm thần”, bà nói. “Thật tình, tôi chỉ thắc mắc bác sĩ ra làm sao thôi. Hãy kể tôi nghe công việc của các bác sĩ tâm thần đi”.
“Trước tiên họ sẽ hỏi xem có điều gì đang làm bà phiền lòng, rồi sau đó họ sẽ yêu cầu bà kể về cuộc sống để tìm hiểu rõ hơn và giúp bà”, tôi đáp. “Có điều gì đang làm bà phiền lòng không?”.
Anna lại mỉm cười và nói, “Cũng không hẳn. Khi 100 tuổi thì người ta bị đau nhức đôi chỗ và phải dùng thuốc men thôi, nhưng tôi vẫn sống một mình và đi lại khá ổn. Nếu tôi đi ra ngoài, cháu gái của tôi hoặc một người bạn có thể đi cùng. Tôi thấy mình may mắn và có một gia đình đầy tình cảm”.
Chúng tôi trò chuyện hơn một giờ đồng hồ về cuộc sống của bà. Bà lớn lên ở miền Nam, giúp chồng cai quản một nhà hàng nhỏ, nuôi dạy bốn đứa con và chứng kiến những đứa cháu lần lượt lớn lên, vào đại học và bước vào đời. Bà vẫn thích nấu ăn và nghĩ ra các món mới, thích may và đan. Rồi bà lấy một cuốn album ảnh lớn từ trên kệ và đưa cho tôi xem. Bà đã có 11 đứa cháu, 26 đứa chắt và 3 đứa chút.
Tôi hỏi liệu bà đã đích thân hay được người thân nào giúp viết ra hoặc ghi âm lại những chuyện đặc biệt đã qua của gia đình hay chưa. Bà lại lấy một cuốn sách khác từ trên kệ. Được các cháu gái thúc giục và giúp đỡ, bà đã viết hồi ký một thập niên trước. Bà cũng đã được phỏng vấn bởi một người chắt trai trong một dự án truyền khẩu về lịch sử.
“Tiếp theo là gì?”, tôi hỏi bà.
Bà quay trở lại ngăn kệ ấy và lại lấy xuống một cuốn nữa. Đó là một cuốn sổ giấy rời có tựa đề: “Những công thức ngon nhất của Anna Franklin: Một trăm năm đầu”.
“À, tôi có nhiều việc để làm lắm”, bà nói. “Tôi cứ liên tục bổ sung cuốn này”. Trước khi ra về, tôi hỏi bà nghĩ gì về lần đầu gặp bác sĩ tâm thần. Bà cười phá lên và nói, “Hóa ra bác sĩ cũng chẳng điên lắm”. Rồi bà ôm tôi thật thắm thiết.
Tôi rời căn hộ của Anna Franklin mà trong lòng hồ hởi bởi sức sống và sự nhiệt thành của bà. Bà là hiện thân của giai đoạn encore trong cuộc sống!
Bốn giai đoạn: Tóm tắt
Giờ ta đã khám phá bốn giai đoạn của cuộc sống cao niên: tái đánh giá ở tuổi trung niên, khai phóng, đúc kết và encore. Những giai đoạn này cho thấy sự gắn kết các quá trình phát triển theo thời gian của hệ thần kinh, của nhận thức và cảm xúc, vốn cũng là biểu hiện của Động lực Nội tâm không ngừng tiếp diễn. Như trong các giai đoạn đầu đời, những năm về sau ta cũng bị thôi thúc có những quan kiến mới, những sự biến đổi và các hình thức sáng tạo mới. Các giai đoạn này trỗi dậy theo một tiến trình không nghiêm ngặt, và thường, nhưng không luôn luôn, cách biệt về thời gian; đôi khi chồng lấn, giao cắt hoặc cộng lực với nhau. Mỗi cá nhân tự trải nghiệm một tiến trình riêng, mô thức riêng và hệ quả riêng qua bốn giai đoạn. Và tác động tích cực của mỗi giai đoạn cho thấy sự năng động và dẻo dai bền bỉ của não bộ con người.
Chúng ta có thể thấy quỹ đạo và động lực phát triển con người ở một đứa bé cố gắng để cầm nắm, bò toài và tập nói; một đứa bé tập đi muốn leo lên bậc thang cao nhất; và một trẻ nhỏ dùng óc sáng tạo biến chiếc giường thành tàu buồm và gối thành pháo đài. Ta nhìn thấy điều đó ở thanh thiếu niên kiên trì thử nghiệm và phấn đấu để giành quyền tự chủ. Ta thấy rõ điều đó ở sự mưu cầu sáng tạo của người lớn ở mọi lứa tuổi, theo nghĩa bóng hay nghĩa đen, những con người muốn trèo lên đỉnh núi để với đến những vì sao. Ta nhìn thấy điều đó ở những bậc trăm tuổi đối mặt với giới hạn của tuổi tác bằng sự sáng tạo và lòng dũng cảm của bản thân. Lực tác động của tất cả các giai đoạn này là Động lực Nội tâm đã hình thành sẵn trong tất cả chúng ta – thúc giục ta hướng đến những chặng đường mới, những thách thức mới, những đổi thay và sáng tạo. Rốt cục, các khía cạnh phát triển này của tuổi tác đã đóng góp không chỉ cho sự trưởng thành và an lạc của cá nhân chúng ta mà cả cho sức khỏe và sự sinh tồn của loài người.
[1] Factory outlet là một thuật ngữ để chỉ loại cửa hàng chuyên tiêu thụ hàng hóa chính hãng nhưng bị loại đôi khi chỉ vỉ một lỗi rất rất nhỏ, hoặc hàng tồn, hàng giảm giá của hãng.