TÁI ĐỊNH NGHĨA ĐỜI SỐNG HƯU NIÊN
Tôi chưa bao giờ nhớ cảm giác mệt mỏi do công việc, mặc dù sự biếng nhác làm tôi kiệt sức hoàn toàn.
• Arthur Conan Doyle
JunAnn Holmes, 71 tuổi, tỉnh giấc bởi tiếng sột soạt ở chân giường. Ngẩng đầu lên để nhìn cho rõ, bà giật thót khi thấy hai cặp mắt đang nhìn mình chằm chằm. Phải mất một lúc bà mới nhớ ra mình đang không nằm trong phòng ngủ ở nhà tại Washington, D.C.. Thực tế là bà đang ở Borneo, và những cặp mắt kia là của hai con đười ươi – đười ươi mẹ và đứa con nó đang bồng trên tay.
JunAnn đã tình nguyện hoạt động cho Quỹ Đười ươi Quốc tế, một tổ chức có chương trình nghiên cứu về các loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng. Đười ươi mẹ đã đánh hơi được mùi nước hoa quả trên chiếc bàn ở đầu giường. Nó đã đẩy cửa căn chòi của JunAnn để vào và giờ đây đang đi ra, với hộp nước quả trong tay. JunAnn cười và ngủ tiếp. Lại một buổi tối nữa ở Borneo.
JunAnn đã về hưu từ nhiều năm trước, và đó là lý do tôi kể câu chuyện của bà ra đây. Hưu niên không còn như trước kia nữa. Trong thực tế, từ “nghỉ hưu” hầu như không còn đúng với những gì tôi nhìn thấy trong đời sống của những người cao tuổi hiện nay. Từ “nghỉ hưu” hàm ý một sự tách biệt với đời, một sự rút lui khỏi các hoạt động, một sự “giải nhiệm” để đưa người ta vào trạng thái lặng lẽ nghỉ ngơi.
JunAnn, như hàng trăm ngàn người lớn tuổi khác, đã chối bỏ khái niệm “nghỉ hưu” truyền thống và những ngụ ý kèm theo. Tôi gặp bà 4 năm trước cái đêm bà bị thức giấc ở Borneo, trong một nghiên cứu diện rộng mang tên Tuổi hưu niên trong thế kỷ 21. JunAnn lớn lên trong vòng tay của nhiều gia đình nhận cha mẹ nuôi vì gia đình bà không đủ sức cưu mang bà trong cuộc Đại suy thoái. Mặc dù lớn lên trong trắc trở, bà đã học hết trung học và đại học, theo chuyên ngành giáo dục đặc biệt. Nhưng bà chưa hề đi dạy. Thay vào đó, bà làm việc nhiều công việc văn phòng trước khi vào làm cho một hãng hàng không ở vị trí đại lý vé và nhân viên dịch vụ khách hàng. Mỗi khi có dịp, JunAnn lại tình nguyện dạy kèm cho trẻ em có nhu cầu đặc biệt. Bà chưa bao giờ lập gia đình và không có con, nhưng trẻ con luôn thích ở cạnh bà, nhất là khi bà đọc sách cho chúng nghe bằng chất giọng ấm áp, đầy cuốn hút.
Ở độ tuổi 50, bà bắt đầu làm tình nguyện viên cho Vườn thú Quốc gia của Washington. Bà đặc biệt quan tâm đến đười ươi và voi – và dường như chúng cũng đáp lại sự tò mò của bà. Có lần bà nghe một bài giảng về đười ươi của giáo sư Biruté Mary Galdikas và bị mê hoặc bởi công việc đó. Bị thúc giục bởi một cảm thức bên trong “nếu không phải lúc này, thì lúc nào?”, JunAnn đã gia nhập Quỹ Đười ươi Quốc tế. Lúc đầu, bà chỉ dự các cuộc họp và đọc tài liệu, nhưng sau đó bà quyết định tham gia trực tiếp hơn. Bà tình nguyện trợ giúp giáo sư Galdikas. Hơn một chục năm tiếp theo, JunAnn đã đến Borneo nhiều lần để tìm hiểu cặn kẽ hơn về tập tính của của đười ươi, nhất là mối liên hệ giữa đười ươi mẹ và con của chúng. JunAnn tham gia sâu vào việc chăm sóc cho những con đười ươi mồ côi, và bà nói rằng toàn bộ trải nghiệm này là một trong những trải nghiệm viên mãn nhất trong đời mình.
Giống như đười ươi trong vườn thú, lũ đười ươi hoang dã rất thoải mái với bà. Những con còn rất nhỏ, vốn cần được bồng như các bé sơ sinh ở người, thường đeo lấy bà. Những con lớn hơn thì nhảy bổ vào người bà từ trên cây khi thấy bà đi ngang qua. Kinh nghiệm của bà trong các gia đình cha mẹ nuôi đã phú cho bà sự đồng cảm sâu sắc đối với những người anh em linh trưởng phải lìa mẹ này.
Đối với JunAnn, “nghỉ hưu” là một sự khởi đầu, chứ không phải kết thúc. Giai đoạn khai phóng đã khiến bà củng cố ý thức về bản sắc cá nhân, làm sáng tỏ mục tiêu cuộc sống và được trao sức mạnh để làm nên ý nghĩa cuộc đời. Giống như JunAnn, nhiều người trên khắp thế giới đang định nghĩa lại tuổi hưu niên.
Tuy nhiên, trước khi tiếp tục, tôi muốn làm rõ đôi điều. Khi kể về JunAnn và, lát nữa, những người đóng vai trò chủ động trong việc “nghỉ hưu”, tôi không nói rằng mọi người đều nên năng động như vậy. Một số người, nhất là những người đã làm việc cật lực trong nhiều thập kỷ, có thể không muốn năng động, ít nhất trong một thời gian. Một số nhà xã hội học và lão khoa, chẳng hạn, đã đề cập đến khái niệm “đạo đức bận rộn”, khi những người lớn tuổi cảm thấy nên nói rằng họ đang bận rộn để biện minh cho thời gian nhàn rỗi của họ. David J. Ekerdt, giám đốc trung tâm lão khoa tại Đại học Kansas, đã đặt ra thuật ngữ “đạo đức bận rộn” trong một bài báo năm 1986. Ông cảnh báo rằng, giống như mọi thứ khác, hoạt động với cường độ cao có thể diễn ra đến mức cực đoan và dẫn đến sự mất giá trị của những hình thức hoạt động êm ả hơn.
Thật vậy, một số người lại thích không hoạt động.
“Tôi ghét những ai cứ nói, “Tôi sắp vào đại học, sắp đi nhảy bungee[1] và sẽ làm chuyện chăn gối đến năm 80 tuổi””, Virginia Ironside tâm sự. Bà phụ trách chuyên mục tư vấn cho tờ London Independent và cũng đang viết một cuốn sách về thú thư nhàn ở tuổi già. “Giờ là lúc để thư giãn. Cứ coi như lâu nay tôi đã nhảy bungee cuồng nhiệt”.
Tôi vẫn đánh giá cao quan điểm của bà Ironside – và tôi ngưỡng mộ việc bà mạnh dạn bày tỏ quan điểm của mình. Đối với bà và những người khác như bà, tôi sẽ nói: “Cứ việc!”. Nếu bạn chỉ muốn thư giãn và không làm gì cả sau khi nghỉ hưu thì hãy cứ như vậy – bạn xứng đáng làm như vậy! Tuy nhiên, tôi không thể bỏ qua chi tiết rằng, dù tuyên bố muốn “thư giãn”, bà đã vừa viết xong một cuốn sách (ở tuổi 60) mang tên “Không, tôi không muốn tham gia một câu lạc bộ đọc sách”. Điều này thật ra cũng không hẳn đúng theo phương châm của một người phụ nữ vừa tuyên bố rằng mình chỉ muốn đi loanh quanh chứ chẳng làm gì cả.
Tôi vẫn nghĩ rằng nên xem trọng quan điểm của bà. Không một ai nên chịu sức ép phải năng động hơn mức họ muốn. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của tôi, tôi không thấy nhiều người như vậy. Ngược lại, tôi cứ gặp những người muốn năng động hơn, tham gia nhiều hơn và được khích động nhiều hơn. Chẳng ai dồn ép họ – đó là kết quả tự nhiên của sự thôi thúc từ bên trong khi tất cả chúng ta đều muốn học hỏi, giao lưu, cảm nhận ý nghĩa và đóng góp trở lại cho xã hội.
Diện mạo của chế độ hưu niên đang thay đổi vì mọi người đều noi theo bản năng, hoạt động nhiều hơn thay vì ngồi quây quần để đánh bài với bè bạn (mặc dù đánh bài cũng tốt cho trí não). Trong thế kỷ 20, suốt nhiều thập niên, tuổi nghỉ hưu giảm dần; thế rồi, trong những năm 1980 xu hướng này đảo chiều, và kể từ đó, tuổi nghỉ hưu cứ tăng lên. Tỉ lệ nam giới lớn tuổi tham gia lực lượng lao động vẫn ổn định, trong khi tỉ lệ tham gia của nữ giới lớn tuổi đã bắt đầu gia tăng đáng kể. Trong những năm gần đây, nhiều chính sách công và các định chế tư nhân khuyến khích nghỉ hưu sớm đã thay đổi. Luật pháp không còn quy định tuổi bắt buộc nghỉ hưu đối với hầu hết công việc. An sinh Xã hội không còn tăng trưởng hào phóng nữa, và mức bảo hiểm theo kế hoạch lương hưu của công ty không còn tăng lên. Ngoài ra, cả chế độ An sinh Xã hội và trợ cấp hưu trí đều “trung tính” hơn về tuổi, nghĩa là ít hoặc không khuyến khích nghỉ hưu ở một độ tuổi cụ thể, chẳng hạn như 62 hoặc 65.
Từ năm 2002 đến 2012, con số người lao động trong độ tuổi 55 trở lên được dự báo sẽ tăng 49% trong khi số người lao động dưới 55 tuổi sẽ chỉ tăng 5%. Hoa Kỳ là một trong những nước có tỉ lệ người lao động ở độ tuổi từ 65 trở lên cao nhất trong các nước phát triển, mà trong giai đoạn 1999 − 2000 chỉ xếp sau mỗi Nhật Bản, Iceland và Bồ Đào Nha.
Nói cách khác, đường ranh phân định “công việc” và “nghỉ hưu” không chỉ dịch sang các độ tuổi cao hơn mà còn trở nên mập mờ hơn. Nhiều người đang chọn cách nghỉ hưu theo nhiều giai đoạn để vẫn có thể làm việc bán thời gian và được hưởng một số quyền lợi. Một số người không hề nghỉ hưu theo nghĩa cổ điển; họ tiếp tục viết lách, giảng dạy, huấn luyện hoặc làm việc cho đến cuối đời. Và họ làm không phải vì bị buộc phải làm, mà vì họ thích làm.
Tuổi hưu niên cũng đang được định nghĩa lại về mặt xã hội và tâm lý. Bất chấp ý niệm ngoan cố cho rằng những người lớn tuổi là “quá đát”, ta ngày càng thấy rõ rằng nửa đời về sau có thể hữu ích hơn, khích lệ hơn, thú vị hơn và phong phú hơn so với nửa đời ban đầu.
Nghiên cứu của tôi về Tuổi hưu niên trong thế kỷ 21
Khi tôi viết những dòng này, cuộc nghiên cứu sâu về hưu niên thời hiện đại, mà tôi khởi sự năm 2000 đã bước sang năm thứ 5. Hiện đã có hơn 100 người trên 60 tuổi tham gia. Tất cả đều đã về hưu, nghỉ hưu một phần, hoặc sẽ nghỉ hưu trong vòng một năm từ khi đăng ký tham dự cuộc nghiên cứu. Những người tham gia đại diện khá đều cho tổng dân số cao niên về giới tính, chủng tộc và mức thu nhập.
Mục tiêu của tôi là có được một cái nhìn sâu về mỗi người tham gia: điều họ xem trọng, cách họ đánh giá bản thân và việc nghỉ hưu, những gì họ đang làm trong đời, và họ phản ứng ra sao trước những biến đổi mang tính tiến hóa của tuổi tác. Nhưng tôi muốn biết không chỉ bức ảnh hiện trạng – tôi muốn xem liệu mọi thứ có thay đổi theo thời gian. Điều đó đòi hỏi nhiều cuộc phỏng vấn trực diện, mà tất cả đều do chính tôi thực hiện. Mặc dù như vậy sẽ phải làm việc rất nhiều, cách này vô cùng hữu ích và khai sáng. Tôi không chỉ hứng thú tìm hiểu các đối tượng tham gia nghiên cứu, mà còn không ngừng học hỏi cái mới từ họ. Ở vị trí người phỏng vấn nghiên cứu, tôi thấy mình đang hưởng đặc quyền. Tôi có thể hỏi những câu hỏi mà bạn bè hoặc người thân sẽ né tránh, chẳng hạn “Đâu là nỗi sợ của ông khi về già?”, hoặc “Bà cảm thấy thế nào về sự mất mát người bạn đời?”.
Các cuộc phỏng vấn gồm một loạt các câu hỏi mà tôi sẽ hỏi cùng với nhiều câu hỏi mở cho phép đối tượng “điền vào chỗ trống” theo cách họ muốn. Giá trị của những câu hỏi mở nằm ở chỗ ta không bao giờ biết mình sẽ khám phá được thông tin sâu xa gì. Giai thoại sau đây minh họa cho ý của tôi.
Mary Leahy mang tâm trạng khích động khi đến văn phòng tôi trễ giờ. Bà kể cho tôi nghe về những lần hoãn chuyến buổi sáng hôm đó trên tàu điện ngầm. Thay vì chủ động “đi thẳng vào việc” với những câu hỏi nghiên cứu, tôi cứ để mặc cho bà nói. Bà kể rằng trong khi đang đợi chuyến tàu, bà nhặt được một cuốn sách nhỏ mang tên “Cẩm nang tàu điện bỏ túi”, trong đó liệt kê các điểm đáng quan tâm tại mỗi trạm dừng. Bà chia sẻ rằng bà không ngờ lại có quá nhiều thứ để xem và làm dọc theo tuyến đường tàu mà bà đã đi nhiều lần. Rồi bà chợt dừng lời. “Tôi làm anh chán à?”, bà hỏi.
“Không hề”, tôi đáp. “Thật tình bà vừa dạy tôi một thứ mà tôi nghĩ rằng nhiều người nên biết”.
Tôi chưa nghe nói đến cẩm nang tàu điện và chợt thấy đây là một ý tưởng hay và đầy giá trị tiềm năng với người lớn tuổi (và cả giới trẻ), những ai đang sống ở nơi có hệ thống giao thông công cộng – xe điện, xe buýt hoặc tàu hỏa.
“Rõ ràng có nhiều người như bà đang sử dụng phương tiện giao thông công cộng”, tôi nói. “Cẩm nang mà bà mô tả này là một ý tưởng thú vị. Tôi nghĩ rằng mọi địa phương có hệ thống giao thông công cộng nên soạn ra một thứ như vậy – và tôi sẽ truyền bá ý tưởng này khi nói chuyện với mọi người trên khắp đất nước. Cảm ơn bà đã chia sẻ!”.
Đây là những gì có thể xảy ra trong các cuộc phỏng vấn cá nhân, cho ta nhiều cơ hội để thảo luận không theo cấu trúc. Đến nay, tôi đã thực hiện hơn 1.000 giờ phỏng vấn, và có được một cái nhìn độc đáo và có giá trị về tuổi hưu niên trong thế kỷ 21 ở Hoa Kỳ.
Một số kết quả sơ bộ
Hình ảnh “hưu niên” qua nghiên cứu của tôi mâu thuẫn rất rõ với những ngộ nhận và giả định hiện đang tràn lan trong nền văn hóa của chúng ta. Nghỉ ngơi không phải là tình trạng của hầu hết những người tôi phỏng vấn. Những người này không hề “quá đát”. Quả vậy, hầu hết (mặc dù dĩ nhiên không phải tất cả) đều đang trèo lên những đỉnh mới, chứ không tụt xuống sau khi đã leo lên. Họ đang tràn ngập cảm giác bước vào một chuyến phiêu lưu mới, mà tôi thấy là sản phẩm của Động lực Nội tâm đã bàn trong chương trước. Trong mỗi chặng của bốn giai đoạn ở nửa đời về sau, con người luôn tìm ra những cách đặc sắc để tự khai thác tiềm năng giữa hoàn cảnh xáo trộn khi chính mình nghỉ việc, con cái ra riêng hay mất mát người bạn đời hoặc bạn bè thân thiết.
Nền văn hóa của chúng ta chưa đưa ra được một từ hoặc cụm từ phù hợp để thay cho “hưu niên”. “Những năm vàng”, mặc dù không đúng lắm và hơi hoa mỹ, ít nhất mang nghĩa tích cực về lợi ích và giá trị. Bất cứ từ nào sau này thay thế từ “hưu niên” – mà tôi chắc chắn điều đó sớm hay muộn cũng xảy ra trong ngôn ngữ học – sẽ phản ánh những gì đã được tìm thấy trong nghiên cứu của tôi. (Tuy nhiên, nghiên cứu của tôi không phải là nghiên cứu duy nhất về hưu niên, và tôi muốn nói thêm rằng các phát hiện của tôi đang được minh chứng bởi các nghiên cứu khác). Trong nghiên cứu của tôi, chẳng hạn, 37% những người tham gia trong “thời kỳ nghỉ hưu” đều chỉ hưu một phần. Điều này cũng tương tự như kết quả trong Nghiên cứu Cornell về Hưu niên và Phúc lợi trước đây của Phyllis Moen, mà đã khảo sát những người về hưu ở độ tuổi 50 đến 72 (so với 60-90 trong nghiên cứu của tôi). Trong nhóm Cornell hơi trẻ hơn, 44% đã nghỉ hưu một phần. Những người nghỉ hưu một phần tiếp tục làm việc bán thời gian, trong các hoạt động kinh doanh mới hoặc trong công việc thời vụ. Đáng chú ý, hơn một nửa những người tôi phỏng vấn – nam cũng như nữ, lên đến 75 tuổi – nói rằng họ muốn làm việc ít nhất bán thời gian nếu có việc. Dĩ nhiên, điều này có nghĩa là có một nửa không quan tâm đến việc đi làm trở lại. Nhưng điều đó dường như cho thấy rõ ràng nhiều người lớn tuổi không hài lòng với tình trạng thất nghiệp khi về hưu.
Một khía cạnh vẫn đúng, trong ý niệm truyền thống về “hưu niên”, là tình trạng cá nhân có nhiều thời gian hơn. Những người trong nghiên cứu của tôi nói rằng khi không phải làm việc toàn thời gian hoặc không phải chăm sóc con cái hằng ngày, họ có thời gian cho riêng mình theo cách mà họ chưa bao giờ trải nghiệm trước đó. Với ít căng thẳng và áp lực, nhiều người lớn tuổi khám phá những sự lựa chọn mới và thử nghiệm các hoạt động mới. Nhiều người chia sẻ đã có cảm giác tự chủ hơn ra sao với thời gian cho riêng mình, làm “ông chủ của mình”. Nhiều điều đáng ngạc nhiên và đáng giá đã bộc lộ qua nghiên cứu. Phần lớn, những bài học này giờ đây mới chỉ bắt đầu được công nhận rộng rãi và áp dụng vào kế hoạch nghỉ hưu của cá nhân, lãnh đạo doanh nghiệp, cộng đồng và các nhà hoạch định chính sách. Chúng ta vẫn còn một chặng đường dài phải đi để tận dụng tiềm năng của nửa đời về sau, để giảm bớt trở ngại đối với sự hoàn thiện cá nhân, để giảm bớt sự tách biệt rất thường đè nặng lên người lớn tuổi và để chuyển từ một cái nhìn tiêu cực về tiến trình lão hóa sang một quan kiến dựa trên những thực tế tích cực mà tôi luôn thấy ở tất cả các đối tượng nghiên cứu.
Bài học 1: Nhu cầu lập kế hoạch
Hầu hết những người đối diện với tuổi hưu trí – hoặc thậm chí hưu trí một phần – đều chưa hoạch định gì cho giai đoạn lớn trong đời này. Tôi không nói về hoạch định tài chính – mà, may thay, lại là điều nhiều người đã tính toán nghiêm túc từ lúc trẻ. Tôi đang nói đến kế hoạch bạn sẽ tham gia sinh hoạt xã hội ra sao, tiêu thời gian thế nào, theo đuổi những mục tiêu lớn nào và làm thế nào để tận dụng triệt để thời gian thặng dư trong đoạn đời này. Phát hiện này, tương tự như trong Nghiên cứu Cornell về Hưu niên và Phúc lợi, cho thấy người ta thường hoạch định cho khía cạnh tài chính, chứ không phải để sử dụng thời gian cá nhân. Chưa đến 10% những người tham gia nghiên cứu của tôi chuẩn bị cho các khía cạnh khác ngoài kế hoạch tài chính. Tuy nhiên, hầu hết mọi người tôi đã phỏng vấn đều nói sẽ rất có lợi nếu họ được dạy về cách hoạch định một danh mục quan hệ xã hội, như đã thảo luận trong chương trước.
Nơi hợp lý để tư vấn và đào tạo về dự bị hưu trí chính là nơi làm việc, nhưng chỉ một số ít trong 100 công ty hàng đầu của Fortune 500 có chương trình hoàn chỉnh cho những người nghỉ hưu. Sự thiếu quy hoạch và chuẩn bị cho việc nghỉ hưu đã khiến người cao tuổi bị giảm cơ hội được mở rộng tầm nhìn với các hoạt động giải trí mới lạ, được bồi bổ về giáo dục, và tham gia sinh hoạt xã hội. Các công ty đang chi rất nhiều tiền để cải thiện và bảo vệ sức khỏe cho nhân viên bằng cách đưa ra các kế hoạch chăm sóc sức khỏe toàn diện. Giúp nhân viên chuẩn bị hiệu quả hơn để chuyển từ công việc toàn thời gian sang chế độ nghỉ hưu cũng là một mục tiêu phù hợp với sứ mệnh đó.
Khi nói “kế hoạch nghỉ hưu”, tôi không nhất thiết ngụ ý rằng ta cần một lộ trình với các bước đi, hoạt động và mục tiêu cụ thể cho phần đời còn lại. Thực tế, một số người có thể vạch phương án rất chi tiết, nhưng đối với nhiều người “kế hoạch” chỉ cần sơ lược và có thể bỏ ngỏ. Một số người muốn trải nghiệm giai đoạn chuyển tiếp trước đã, rồi mới vạch hướng đi mới. Đối với họ, thăm dò cũng là “kế hoạch”. Dù sao thì, như người ta vẫn nói, “Ta không biết những gì ta không biết”. Nghỉ hưu có thể giống như vào đại học, vốn là một quá trình bỏ ngỏ. Ở trường đại học ta khám phá các hướng đi, tiếp cận ý tưởng mới và những cuộc phiêu lưu mới. Nhiều trường đại học nhìn nhận giá trị của sự thăm dò và tìm hiểu các môn học nên không yêu cầu sinh viên cam kết theo chuyên ngành cho đến năm thứ hai hoặc thứ ba. Bạn cũng có thể về hưu theo cách đó – thăm dò, tìm hiểu, thử việc này hay việc nọ để xem điều gì hấp dẫn. Sau một thời gian chủ động thăm dò, bạn có thể (hoặc không cần) đề ra một kế hoạch có trọng tâm cho việc “nghỉ hưu”.
Bài học 2: Nhu cầu cơ sở hạ tầng cộng đồng
Vấn đề hoạch định kém cũng liên quan đến lỗ hổng lớn mà cộng đồng có thể khắc phục bằng cách kết nối sở thích và kỹ năng của người cao niên với nhu cầu của địa phương. Tôi thấy nhiều người có chuyên môn xuất sắc đã không tận dụng được kỹ năng của mình vì không có nơi để đóng góp. Các hoạt động tình nguyện thường không được quảng cáo theo kiểu truyền thống để tuyển người. Tôi nghĩ rằng các nhà lãnh đạo cộng đồng và các nhà hoạch định chính sách có cơ hội và trách nhiệm giúp người về hưu trong quá trình kết nối này. Kết quả sẽ có lợi cho mọi người. Có lẽ khi người lớn tuổi trở nên quen thuộc hơn với Internet, sẽ dễ dàng tạo ra các trang cộng đồng để tuyển “tình nguyện viên”.
Bài học 3: Giá trị của một danh mục quan hệ xã hội cân bằng
Tôi có ấn tượng mạnh về sự mất cân bằng trong cách người lớn tuổi giao tiếp xã hội. Một số dành phần lớn thời gian ở một mình – họ lẽ ra được lợi từ các hoạt động nhóm. Những người khác thì hầu như hoạt động suốt – luôn đi, đi và đi; họ lẽ ra được lợi khi theo đuổi một số hoạt động ít năng lượng. Khá ít người có “danh mục quan hệ xã hội” cân bằng như tôi mô tả trong chương trước. Một người làm được như thế là một phụ nữ 79 tuổi, đã gia nhập một câu lạc bộ đánh bài để thách đố trí não và giao lưu (một hoạt động ngồi nhiều) đồng thời cũng ghi danh theo các khóa “học tập trọn đời”, gồm cả hoạt động du lịch (một hoạt động nhiều năng lượng).
Các nhà hoạch định chính sách và các nhà lãnh đạo các tổ chức của người lớn tuổi nên suy nghĩ nhiều về phát hiện này vì nó cho thấy rõ nhu cầu của họ về đào tạo, hướng dẫn và hỗ trợ. Mục tiêu của việc “quy tụ người cao tuổi” thường được hiểu quá hẹp. Thuyết trình một loạt bài giảng, chẳng hạn, là chưa đủ. Cần phải đưa ra các hoạt động đòi hỏi nhiều năng lượng nữa. Và, chưa hết, những người có xu hướng chuộng một loại hoạt động nên được khuyến khích thử nghiệm một dạng trải nghiệm khác. Một người có thú quan sát chim và luôn luôn đi dã ngoại cần được khuyến khích bổ sung thêm hoạt động ít năng lượng. Sự kết hợp các loại hoạt động – cá nhân với nhóm, nhiều năng lượng với ít năng lượng – sẽ kích thích toàn diện hơn, cả não bộ và cơ thể, so với khi chú trọng vào chỉ một loại hình hoạt động.
Bài học 4: Tham gia nhiều hơn theo thời gian
Trong ba năm đầu của nghiên cứu này, tôi theo dõi số lượng các hoạt động mà mỗi đối tượng tham gia. Ngạc nhiên thay – và trái ngược hoàn toàn với lý thuyết “thoát ly” mà tôi đã bình luận trong chương trước – tôi thấy rằng xu hướng của các đối tượng này là gia tăng các hoạt động theo thời gian. Trong thực tế, năm thứ ba là thời điểm hầu hết các đối tượng cho biết họ tham gia xã hội nhiều nhất. Và nhiều người khai rằng năm thứ ba là năm “tốt nhất” của họ trong ba năm mà tôi nghiên cứu.
Xu hướng này có thể một phần do những người này đang tham gia cuộc nghiên cứu. Bằng cách khích lệ họ bình luận các trải nghiệm và cân nhắc các phương án, có thể tôi đã khiến họ chủ động hơn bình thường. Loại tác dụng phụ này trong nghiên cứu là không thể bỏ qua, nhưng cũng không giải thích được mọi lẽ. Dù sao thì các cuộc phỏng vấn của tôi chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong đời sống của các đối tượng, và một sự can thiệp khá nhỏ như vậy khó mà lý giải được sự gia tăng tổng thể mức độ hoạt động mà tôi thấy. (Nếu các buổi làm việc của chúng tôi tác động được đến bản chất và mức độ họ tham gia hoạt động cộng đồng, thì tôi thấy đây là bằng chứng về hiệu quả để thiết lập các chương trình giúp người cao tuổi cân nhắc các hoạt động tình nguyện hoặc phương án công việc).
Chẳng phải họ bị khích động bởi chính cuộc nghiên cứu, mà tôi nghĩ rằng các đối tượng tham gia đã đáp lại Động lực Nội tâm để tìm kiếm thêm sự giao tiếp xã hội và kích thích tinh thần. Tôi còn nhớ một cặp vợ chồng mà tôi phỏng vấn. Đều ở độ tuổi 60, họ tìm kiếm những hoạt động khác thường trong cộng đồng. Họ phát hiện ra một chương trình của sở cảnh sát địa phương mà người dân được mời dự hội thảo để trực tiếp hiểu được các trách nhiệm, thách thức và trải nghiệm trong công việc của cảnh sát. Một trong các hoạt động của họ là tháp tùng trong xe tuần tra để chứng kiến một ngày làm việc của cảnh sát. Cặp vợ chồng này rất phấn khích với loại hoạt động này. Họ thích thú gặp gỡ những người mới, nhìn mọi việc từ quan kiến mới, và thách đố bản thân về tinh thần lẫn thể chất.
Bài học 5: Giá trị của các hoạt động thâm niên
Tôi đã tìm được nhiều bằng chứng cho thấy thâm niên của hoạt động quan trọng hơn bản chất của hoạt động ấy. Nói cách khác, một câu lạc bộ sách họp mặt đều đặn suốt nhiều tháng hoặc nhiều năm sẽ có tác dụng tốt hơn các hoạt động có cùng số lần nhưng chỉ diễn ra nhất thời, như xem phim, nghe giảng hoặc đi chơi. Các hoạt động có thâm niên hoặc tái diễn sẽ tốt hơn cho việc thiết lập các mối quan hệ mới và kết giao với bạn mới. Do đó, một danh mục quan hệ xã hội cân bằng cần bao gồm các hoạt động ít năng lượng và chóng vánh với các chương trình thâm niên quy tụ nhiều người. Nhiều người lớn tuổi, và cả những người có trách nhiệm giúp đề ra các chương trình hoặc hoạt động cho họ, chưa biết đến bài học này.
Giá trị của các hoạt động tái diễn được minh họa qua một người mê opera tham gia nghiên cứu của tôi. Mặc dù thường xuyên xem opera, ông thấy mình không tìm được bạn mới từ đó. Thế là ông lập một câu lạc bộ opera video và ăn tối. Ông tổ chức những buổi tối tại nhà để những người thích opera có thể tụ tập để xem opera trên truyền hình, rồi ăn tối và thảo luận giữa các màn diễn. Bằng cách đó opera đã trở thành một hoạt động xã hội quan trọng trong cuộc sống của ông.
Bài học 6: Cái khó của việc tạo dựng tình bạn thân thiết
Một xu hướng khác liên quan đến phát hiện trước: Cái khó trong việc tìm bạn mới, nhất là bạn thân – những người mà ta cảm thấy thoải mái để tâm sự chuyện cá nhân, các vấn đề rắc rối, nỗi sợ hoặc niềm vui. Nói theo cách của ngành tâm lý, ta gọi những tình bạn như vậy là “quan hệ tâm giao”. Nghiên cứu cho thấy việc có ít nhất một – và nhiều thì tốt – quan hệ tâm giao là yếu tố quan trọng của sức khỏe tâm thần và khả năng phục hồi tinh thần.
Nhiều người cao tuổi bảo tôi rằng họ không có cơ hội tìm bạn mới. Đôi khi điều này chỉ là do họ chưa nỗ lực tìm. Nhiều cộng đồng, thậm chí những cộng đồng nhỏ, có các tổ chức, chương trình, trung tâm hoặc tụ điểm thích hợp để mọi người gặp gỡ, nếu ta để ý tìm kiếm. Nhưng cũng có thể khó tìm thấy những nơi hoặc những chương trình như vậy vì người ta không tập trung danh sách hoặc công bố. Một lần nữa, đây là một bài học cho người cao niên cũng như cho những người phụ trách các trung tâm người cao niên, các cơ quan địa phương về người cao niên và các tổ chức nhắm đến mục tiêu làm phong phú cho cuộc sống của người cao niên.
Đối với những độc giả lớn tuổi, tôi xin chia sẻ nhận định tràn trề hy vọng sau đây: Kết bạn mới và tạo các quan hệ xã hội mới là một hiện tượng tự sinh sôi nảy nở. Càng gặp nhiều người, ta lại càng gặp thêm nhiều người! Một nhóm mà ta tham gia có thể cho ta tin tức về các nhóm khác. Tôi thường xuyên chứng kiến sự nảy nở quan hệ chồng chéo này. Tôi biết một phụ nữ làm công việc hướng dẫn giao thông đã nghỉ hưu ở độ tuổi 60 và bắt đầu từng bước mở rộng danh mục quan hệ xã hội. Bà bắt đầu bằng cách gia nhập một nhóm đi bộ ở siêu thị – loại hình mà người ta thường tụ tập để cùng đi bộ quanh một trung tâm mua sắm theo chương trình khuyến mãi để được thưởng vé xem phim miễn phí. Sau đó, vợ chồng bà nghe nói về một câu lạc bộ cắm trại thường đi đến những khu vực danh lam thắng cảnh để cắm trại dài ngày theo nhóm. Giờ đây vợ chồng bà thử đi du lịch theo cách này mỗi tháng một lần từ tháng 4 đến tháng 10. Những người bạn mà bà quen ở các nhóm này họp mặt hằng tuần ở nhà nhau để ăn tối, vui chơi và đánh bài. Dĩ nhiên, bà không đi suốt; vợ chồng bà dành nhiều thời gian để nghỉ ngơi và thư giãn, nhưng họ là ví dụ về những người có danh mục quan hệ xã hội cân bằng một cách lý thú sau khi lần theo thông tin có được từ một nhóm ban đầu.
Bài học 7: Tầm quan trọng của sự đền đáp
Câu hỏi gây suy tư nhất mà tôi đặt ra về chuyện hưu niên là: “Điều gì mang lại cho quý vị cảm giác về ý nghĩa hoặc mục đích trong cuộc sống?”. Câu trả lời gần như phổ biến là “đóng góp và giúp đỡ người khác”. Tôi nghe câu trả lời này từ mọi người thuộc mọi mức thu nhập, chủng tộc và hoàn cảnh văn hóa. Nó cho thấy một động lực về cơ bản mang tính khoan dung và cao quý: đóng góp cho lợi ích chung. Như ta đã thấy trong chương về giai đoạn đúc kết, sự thôi thúc đáp trả về già trở nên hết sức mạnh mẽ khi người ta thay đổi quan kiến về cái chết và khi các giá trị của họ thay đổi trước những thách thức của quá trình lão hóa. Không phải ước muốn cũng biến thành hành động, thường vì họ không biết nơi để đóng góp. Các cộng đồng cần giúp mọi người dễ dàng tìm được nơi đóng góp thể theo động lực nhân ái của họ. Các ước muốn này luôn tồn tại và tạo thành một nguồn lực xã hội to lớn.
Trong số đối tượng tham gia cuộc nghiên cứu của tôi, những ai tìm được hoạt động tình nguyện có ý nghĩa để tham gia, cũng như các cách khác để “đáp trả”, là những người hài lòng nhất với tuổi hưu. Nhóm hưu niên có nguy cơ bất mãn cao nhất là những người đã có sự nghiệp, đã từng có ảnh hưởng trong đời, và giờ đây thấy khó tìm được cảm giác thành tựu như vậy khi về hưu. Nhóm này lẽ ra sẽ được lợi khi tham gia một chương trình hoạch định hưu trí – nhưng, như tôi đã nói, giải pháp này thường thiếu vắng ở hầu hết các cộng đồng và các tập đoàn lớn.
Ta có thể thấy một ví dụ về hiệu ứng tích cực của sự hoạch định này qua câu chuyện của một giáo viên đã nghỉ hưu trong nghiên cứu của tôi. Bà yêu thích giảng dạy và đã nhiều năm hoạt động tình nguyện trong hiệp hội chuyên môn của mình ở cấp quốc gia. Khi nghỉ hưu, bà trở thành một cán bộ trong tổ chức đó. “Lẽ ra 5 năm nữa tôi mới nghỉ hưu, nếu như không được giao vị trí mới này”, bà cho biết. “Hóa ra đây là một bước đi mỹ mãn và thật xứng đáng”.
Một vài cộng đồng đang bắt đầu tìm cách kết nối nhân tài hưu trí với hoạt động tình nguyện của cộng đồng. Ví dụ, tôi đã làm việc với một nhóm cấp tiến ở hạt Montgomery, Maryland, mang tên Lãnh đạo Cao cấp Montgomery. Nhóm tổ chức các khóa học lẫn các “dự án hành động” để đáp ứng nhu cầu cụ thể, như giúp đỡ trường học, thư viện, hệ thống tòa án, hoặc các chương trình giải trí. Chương trình này vươn rộng: Chào đón bất cứ ai trên 55 tuổi, đã nghỉ hưu hoặc chưa, mà “sẵn sàng chia sẻ sự uyên bác và tài năng của mình với những người cùng mục đích muốn tạo nên thành quả”. (Để biết thêm thông tin về nhóm này, hãy tham khảo thêm các nhóm liên quan như Senior Corps và Experience Corps).
Tất nhiên, một số người còn tự tạo ra cơ hội hoạt động tình nguyện cho mình. Ví dụ, Charles Vetter, chuyên viên nghỉ hưu của Cơ quan Thông tin Hoa Kỳ, nơi ông là một chuyên gia về Liên Xô cũ. Ông quan tâm sâu về lịch sử, chính trị, văn hóa Nga và muốn chia sẻ kiến thức với mọi người với hy vọng sự hiểu biết hơn về nước cựu thù này sẽ giúp cải thiện quan hệ giữa hai nước. Ông nảy ra một ý tưởng hấp dẫn: Ông dựng lên một nhân vật tên Alexandr Petrovich Surov, một quan chức chính phủ Liên Xô đã nghỉ hưu. Ông tập nói giọng Nga và soạn “tiểu sử” chi tiết về nhân vật của mình để tạo sức hút với khán giả. Ông dự định sẽ bước lên sân khấu và giải thích bằng “giọng Nga” rằng ông là người thay thế cho tiến sĩ Charles Vetter, vốn phải hủy lịch vào phút chót. Sau đó ông sẽ tha hồ chuốc cho khán giả bao “giai thoại”, tóm tắt các diễn biến hiện thời theo quan điểm “Nga” và kể chuyện thời Chiến tranh Lạnh. Ông cập nhật văn hóa Nga bằng cách không ngừng đọc và tham dự các buổi giảng tại các hội thảo cấp khu vực như tại Trung tâm Học giả Quốc tế Woodrow Wilson. Ông sẽ chỉ tiết lộ danh tính đích thực sự của mình vào cuối phần trình bày, mà luôn luôn làm khán giả ngạc nhiên và mê mẩn. Riêng trong năm 80 tuổi, Vetter đã xuất hiện 125 lần, trong vai ông Surov hoặc đích danh chính mình, để thuyết trình về các chủ đề với sinh viên và các nhóm cộng đồng – một ví dụ lý thú về việc tạo ra mạng quan hệ xã hội mới trong thời hưu niên, và cũng là một minh họa sinh động về cách chuyển hóa sự thôi thúc bên trong chính mình để đóng góp cho xã hội trong những năm tháng cuối đời.
Bài học 8: Tầm quan trọng của việc học tập trọn đời
Một thông tin lộ rõ qua dữ liệu nghiên cứu của tôi là hầu hết những người ở tuổi hưu đề cao tinh thần hiếu học trọn đời, dưới nhiều hình thức như các khóa học chính thức, các buổi giảng, các chương trình giáo dục kèm du khảo, hội thảo, câu lạc bộ và các nhóm khác. Tôi thấy ước muốn học tập tiềm ẩn của họ lớn hơn cả mức độ thực tế họ đang tham gia, chủ yếu do giới hạn về tài chính. Nhiều người cao tuổi muốn luyện tập trí não nhưng bị hạn chế vì việc học thường tốn tiền. Đây là một bài học quan trọng nữa cho xã hội. Các cộng đồng nên hoạch định thêm các cơ hội giáo dục chi phí thấp hoặc miễn phí cho người lớn tuổi. Dù gì thì người lớn tuổi vẫn phải trả thuế giáo dục, nhưng họ không gặt hái lợi nhuận gì từ sự hỗ trợ này.
Nghiên cứu này và các nghiên cứu khác cho thấy hoạt động giáo dục nào góp phần tạo cảm giác tinh thông sẽ giúp tăng cường sức khỏe và sự độc lập về cuối đời. Do đó, việc hữu ích và thực tiễn là tạo ra cơ hội giáo dục cho mọi người vì nó sẽ giảm thiểu nguy cơ người lớn tuổi phải vào viện điều dưỡng.
Một người tham gia cuộc nghiên cứu về hưu niên đã nghĩ ra cách thỏa mãn nhu cầu học tập của mình bất chấp thu nhập hạn hẹp. Viên thư ký hưu trí 62 tuổi này đã tận dụng lợi thế sinh sống ở Washington, D.C., bằng cách hỏi các đại sứ quán nước ngoài về các sự kiện văn hóa công cộng miễn phí. Bà chưa bao giờ thất bại với cách này! Nhưng bạn không cần phải sống ở Washington mới tìm được các hoạt động như vậy. Các trường cao đẳng địa phương, viện bảo tàng, thư viện, và các trung tâm giáo dục thường có các sự kiện và hoạt động miễn phí hoặc với chi phí thấp – mặc dù thông tin ít khi được công bố rộng rãi.
Còn nhiều cách khác mà các cộng đồng có thể làm. Ví dụ, tổ chức chiến dịch khích lệ những người giữ vé theo mùa đối với các sự kiện văn hóa, thể thao hãy tặng vé chưa dùng cho các trung tâm cao niên. Các nhà hát trong vùng có thể cho người cao tuổi vé miễn phí để xem các buổi tổng diễn tập. Có thể mời người lớn tuổi làm hướng dẫn viên tình nguyện để đổi lấy vé miễn phí tham dự các buổi trình diễn. Cũng có thể ấn hành cẩm nang thông tin về văn hóa, lịch sử, danh lam thắng cảnh, hoạt động giải trí của địa phương, tương tự như “Cẩm nang tàu điện bỏ túi” của Washington, D.C., đã đề cập trước đây.
Hệ số Dự bị Hưu trí
Tôi đã trao cho những người tham gia nghiên cứu bảng câu hỏi sau đây để giúp họ xác định Hệ số Dự bị Hưu trí theo thang điểm từ 0 (không hề sẵn sàng) đến 12 (hoàn toàn sẵn sàng). Hãy dành chút thời gian để suy nghĩ về các câu hỏi này và phần giải thích ý nghĩa đi kèm. Nếu bạn chưa nghĩ cặn kẽ về bất kỳ câu hỏi nào, hoặc nếu không có nhiều câu trả lời thỏa đáng, có lẽ bạn chưa chuẩn bị tốt cho việc nghỉ hưu.
1. Tại sao bạn đang nghĩ đến việc nghỉ hưu?
(1 điểm nếu khi bạn ghi ra và sau đó đọc lại cho chính mình nghe mà thấy hợp lý, hoặc nếu một ai đó đáng tin cậy và hiểu biết bạn cho rằng câu trả lời thỏa đáng và rõ ràng. 0 điểm nếu lập luận của bạn có vẻ mập mờ hoặc bạn không chắc chắn). Ý nghĩa: Lý do bạn nghỉ hưu cần hợp lý và không bốc đồng hoặc không do sự tính toán không đến nơi đến chốn.
2. Bạn có thật lòng muốn nghỉ hưu?
(1 điểm nếu có, 0 điểm nếu không.)
Ý nghĩa: Câu hỏi thoạt nghe như đơn giản này là một dự báo hữu hiệu về việc bạn có chuyển sang nghỉ hưu một cách êm xuôi. Nó đòi hỏi bạn xem xét nguyện vọng và động cơ sâu xa nhất của mình, chứ không chỉ những gì bản thân “nghĩ” nên làm hoặc những gì người khác kỳ vọng.
3. Gia đình và bạn bè của bạn nói gì về việc bạn nghỉ hưu?
(1 điểm nếu họ nghĩ rằng bạn đang làm đúng). Ý nghĩa: Phản hồi từ những người hiểu bạn có thể rất có giá trị khi bạn đang tính chuyện nghỉ hưu. Họ có nghĩ rằng đó là một quyết định đúng? Họ có nghĩ rằng bạn đã suy nghĩ cặn kẽ và chuẩn bị chu đáo cho việc đó?
4. Bạn đã cân nhắc liệu mình muốn nghỉ hưu hoàn toàn hay một phần? Bạn đã cân nhắc công việc bán thời gian hoặc thời vụ, hoặc thậm chí một kế hoạch kinh doanh nhỏ nào không chiếm toàn thời gian?
(Điểm nhấn mạnh ở đây là sự cân nhắc.)
(1 điểm nếu có, nếu bạn đã xem xét các phương án, thậm chí nếu bạn chọn nghỉ hưu hoàn toàn chứ không nghỉ một phần). Ý nghĩa: Nếu bạn không hoàn toàn chắc chắn về việc nghỉ hưu hoặc quan ngại về tài chính thì nghỉ hưu từng bước hoặc nghỉ hưu một phần là một phương án quan trọng cần xem xét.
5. Tài chính của bạn đủ để sống những năm hưu trí mà vẫn duy trì mức sống hiện tại?
(1 điểm nếu trả lời có cho cả hai vế của câu hỏi; 0 điểm nếu trả lời không với một trong hai vế.)
Ý nghĩa: Nếu trả lời không, rõ ràng bạn cần tính toán thêm về tài chính.
6. Bạn đã tham dự một chương trình dự bị nghỉ hưu hoặc hội thảo chuyên đề về hoạch định tài chính?
(1 điểm nếu có, 0 điểm nếu không.)
Ý nghĩa: Các chương trình như thế có thể giúp bạn hoạch định chi tiêu, dự đoán thu nhập trong tương lai, và dự báo nhu cầu trong tương lai. Sẽ có nhiều phương án và rất nên tìm kiếm lời khuyên khách quan.
7. Điều gì mang lại cho bạn cảm giác về ý nghĩa và mục đích trong cuộc sống?
(1 điểm nếu khi viết ra và sau đó đọc lại bạn cảm thấy mình đã xác định được đầy đủ những gì mang lại cho mình cảm giác về ý nghĩa và mục đích trong cuộc sống. 0 điểm nếu lập luận của bạn có vẻ mập mờ hoặc bạn không chắc chắn). Ý nghĩa: Việc không thấy rõ các giá trị cốt lõi và khía cạnh cuộc sống có ý nghĩa với bản thân thường dẫn đến tuổi hưu niên kém viên mãn.
8. Những loại hình hoạt động và trải nghiệm cụ thể nào là quan trọng và thỏa mãn với bạn?
(1 điểm nếu khi bạn viết ra và sau đó đọc lại, phần mô tả kế hoạch phù hợp những gì bạn thấy quan trọng, hoặc 1 điểm nếu một người đáng tin cậy và biết bạn cho rằng câu trả lời của bạn là thỏa đáng và rõ ràng). Ý nghĩa: Đây là phiên bản cụ thể hơn của câu số 7. Câu trả lời của bạn ở đây tiết lộ bạn thực sự thấu hiểu suy nghĩ của mình đến đâu và đã lên kế hoạch chu đáo đến đâu để thực hiện những gì quan trọng với mình.
9. Bạn đã tham dự một chương trình dự bị nghỉ hưu hoặc hội thảo chuyên đề về việc hoạch định giao tiếp xã hội (ví dụ, các hoạt động cộng đồng và cá nhân)?
(1 điểm nếu có, 0 điểm nếu chưa.)
Ý nghĩa: Những người sẽ về hưu thường không hoạch định thỏa đáng về cách dùng thời gian khi về hưu. Khi không được chuẩn bị kỹ, sự lúng túng có thể gây ra tâm lý ức chế và khiến đời sống hưu trí trở nên đáng thất vọng.
10. Bạn đã hình thành được mối quan tâm, sở thích, hoạt động tình nguyện hoặc lĩnh vực mới để học hỏi hay chưa?
(1 điểm nếu có, 0 điểm nếu chưa.)
Ý nghĩa: Việc hình thành các sở thích mới có thể giúp cải thiện chất lượng cuộc sống hưu trí, và việc tham gia các thử thách mới có thể mang lại cho cá nhân cảm giác tinh thông và giàu năng lực, góp phần khiến sức khỏe trở nên khả quan.
11. Bạn đã trù tính các hoạt động mới để tương tác với mọi người một cách thường xuyên và có cơ hội kết bạn mới hay chưa?
(1 điểm nếu có, 0 điểm nếu chưa.)
Ý nghĩa: Kết bạn mới thường là khó khăn hơn khi về hưu, và sự cô đơn dẫn đến một loạt các căn bệnh về tinh thần và thể chất.
12. Trong thời gian nghỉ hưu, liệu một sự tham gia hoạt động tình nguyện khiêm tốn có đủ với bạn?
(1 điểm nếu có, 0 điểm nếu không.)
Ý nghĩa: Những người từng có sự nghiệp thỏa mãn và đầy ý nghĩa đối với cá nhân có thể cảm thấy khó khăn khi chuyển sang nghỉ hưu nếu không có thêm những cách khác để bản thân trở nên có ý nghĩa. Những người như vậy nên cân nhắc nghỉ hưu theo từng giai đoạn để có thể duy trì công việc có ý nghĩa trong thời gian chuyển sang nghỉ hưu.
Điểm số
12 điểm: Bạn đã sẵn sàng có một thời kỳ hưu niên mỹ mãn.
10-11 điểm: Hưu niên của bạn hầu như sẽ thỏa mãn cao độ.
8-9 điểm: Hưu niên của bạn có thể gặp những vấn đề có thể khắc phục.
6-7 điểm: Bạn có thể rối trí bởi nhiều cảm xúc lẫn lộn về việc nghỉ hưu, và cần một sự nỗ lực tích cực để cải thiện tình hình.
3-5 điểm: Bạn có nguy cơ gặp rắc rối do đời sống hưu niên không diễn ra ổn thỏa trừ phi bạn nỗ lực lớn để điều chỉnh mọi chuyện.
0-2 điểm: Bạn có nguy cơ trải qua một thời kỳ nghỉ hưu bất mãn, và cần phải dốc sức để cải thiện viễn cảnh của mọi chuyện trong tương lai.
Thách thức trí não và cải thiện sức khỏe ở tuổi hưu niên
Khi nghe nói về cuộc nghiên cứu hưu niên của tôi, người ta thường hỏi xem có thể làm gì để cải thiện sức khỏe tinh thần và thể chất của họ trong đoạn đời này. Tất nhiên, có nhiều điều ta có thể làm, nhưng do con người chúng ta dường như thích số 10 khi nghĩ đến các danh sách, những lời khuyên và mức đánh giá nên tôi sẽ trình bày 10 cách ưu tiên hàng đầu để duy trì tinh thần và sức khỏe ở nửa đời về sau. Tôi đã không tự nghĩ ra những lời khuyên này và mang từ trên núi xuống một cách huyền bí, mà chúng được căn cứ trên một núi dữ liệu, bao gồm cả những phát hiện mới nhất của ngành thần kinh học.
1. Chơi trò chơi và giải đố. Các trò chơi từ ngữ như ô chữ hoặc ghép từ (scrabble) đặc biệt hữu ích, mặc dù bất kỳ loại hình trò chơi nào đòi hỏi vận dụng trí óc hoặc gợi nhớ thông tin đều hữu ích. Nghiên cứu cho thấy ta có thể tiếp tục gia tăng vốn từ vựng suốt đời. Nói chung, các trò như đánh bài và các trò khác đòi hỏi trí nhớ và chiến lược đều tạo điều kiện cho trí não trở nên nhanh nhạy và tạo ra các khớp thần kinh mới.
2. Lên lịch ăn tối và thảo luận nhóm về sách hoặc video. Sự thảo luận tích cực và khơi gợi tư duy trong một bầu không khí giao lưu đầy kích thích và thân thiện sẽ tốt cho trí não lẫn khẩu vị.
3. Du lịch đến địa điểm mới – trong vùng hoặc ở xa. Hãy nghĩ ra địa điểm mới mà bạn muốn và đi đến đó, hoặc một mình hoặc cùng bạn bè hoặc gia đình. Nơi này có thể ở gần như một cuộc triển lãm mới trong thành phố hoặc ở xa tận nước ngoài. Hãy cân nhắc ghi lại trải nghiệm của bạn bằng cách nào đó – những trang viết, âm thanh, ký họa, ảnh chụp hoặc video.
4. Đăng ký một khóa học về một chủ đề không quen thuộc. Học tập trọn đời là phát triển trọn đời. Các khóa học quy tụ đa thế hệ ngày càng phổ biến hiện nay mang lại cơ hội để thu thập kiến thức mới đầy lý thú lẫn các mối quan hệ mới. Bạn cũng có thể kết hợp học tập với du lịch thông qua các chương trình như Elderhostel.
5. Khám phá quầy sách về sở thích hoặc thủ công tại hiệu sách để tìm ý tưởng mới. Thậm chí nếu không biết mình quan tâm điều gì, hãy xem lướt qua những cuốn sách về sở thích và thủ công để khơi gợi sự tò mò hoặc nhắc nhở bản thân về những sở thích lâu năm mà bạn chưa bao giờ có thời gian để theo đuổi.
6. Tình nguyện viên. Công việc tình nguyện là một cách để chia sẻ các kỹ năng đặc biệt hoặc học hỏi kỹ năng mới trong khi tương tác với mọi người và phục vụ cộng đồng. Nó là môi trường để thử nghiệm các phương thức tiếp cận mới và làm việc với mọi nhóm tuổi. Trong những người trạc ngoài 80 tuổi, hơn ¼ vẫn hoạt động tình nguyện. Hoạt động xã hội có giá trị cao đối với cá nhân lẫn xã hội.
Đừng quên rằng ngày nay ta có thể hoạt động tình nguyện qua Internet. Có trang web cho mọi sở thích, và nhiều trang có các kênh tán gẫu để các thành viên giàu kinh nghiệm giải đáp hoặc giúp giải quyết các vấn đề mà những người ít kinh nghiệm phải đối mặt. Nếu có chuyên môn cụ thể, bạn có thể thấy nhiều người cần mình. Một ví dụ về hoạt động tình nguyện trực tuyến là bách khoa toàn thư Wikipedia (www.wikipedia.org), nơi bất cứ ai cũng có thể bổ sung hoặc chỉnh sửa. Hàng ngàn người bình thường có sở thích hoặc kiến thức cụ thể về một chủ đề đang tình nguyện viết bài, sửa lỗi, biên tập ngữ pháp và cải thiện chất lượng của nguồn tài nguyên mới đồ sộ này.
7. Hãy cân nhắc công việc bán thời gian mới. Nhiều người “nghỉ hưu” tiếp tục làm việc dạng bán thời gian hoặc thời vụ, hoặc vì tiền, hoặc vì nhu cầu giao lưu, hoặc cả hai. Thái độ đối với người lao động cao tuổi đang được cải thiện, nhất là trong xã hội đang mở mang về dịch vụ của chúng ta ngày nay, vốn cần đến kinh nghiệm và sự tận tâm của những nhân viên dày dạn. Hãy hỏi tìm việc ở thư viện địa phương hoặc khám phá một số các trang web về khía cạnh này.
8. Liên lạc với gia đình và bạn bè. Lên lịch viết thư hoặc email thường xuyên cho người thân trong gia đình hoặc bạn bè, để không những tăng cường quan hệ mà còn luyện tập trí não hữu hiệu. Trong thời đại kỹ thuật số này, hãy nhớ rằng việc nhận được một lá thư “thật” trong hòm thư là điều đặc biệt đối với người nhận. Nhưng so với thư “thật”, email giúp bạn dễ nhận được hồi đáp hơn từ các con cháu vốn bận rộn.
9. Nhật ký giấc mơ. Những giấc mơ ngày và đêm là nguồn kết nối phổ biến nhất với óc sáng tạo. Hãy ghi lại hoặc vẽ ra để nhìn thấy những suy nghĩ và ước muốn bên trong và tự giúp mình khai thác tiềm năng sáng tạo. Hãy đặt sổ tay cạnh giường vì những giấc mơ thường phai nhòa nhanh sau khi thức dậy. Ta cũng có thể dùng băng ghi âm. Ta không cần ghi lại mọi giấc mơ, hoặc thậm chí mọi chi tiết trong mơ (thường các giấc mơ sẽ giàu chi tiết đến mức khó có thể mô tả hết tường tận). Chỉ cần ghi lại những gì có vẻ đặc biệt thú vị, kỳ lạ hoặc có ý nghĩa cá nhân. Bạn không cần phải lý giải giấc mơ. Thường các giấc mơ chỉ là giấc mơ – không có “nghĩa” gì cụ thể. Chúng có thể tiết lộ những thôi thúc, xung đột hoặc cảm xúc trong tiềm thức, nhưng cũng có thể chỉ là cách não bộ của ta giải tỏa và xử lý tất cả hình ảnh, cảm xúc và suy nghĩ trong ngày dưới hình thức những giấc mơ phi lý, ngẫu nhiên và siêu thực.
Ví dụ, hãy nhớ lại trong chương 3 câu chuyện của James Dunton, vị kỹ sư máy tính ở tuổi trung niên không hài lòng với công việc. Anh đã có một loạt những giấc mơ đáng sợ, như hỏa hoạn vì điện và thiên tai tàn phá văn phòng đầy máy tính. Anh cảm thấy những giấc mơ đang mách rằng bản thân đang nguy hiểm về sức khỏe tâm thần nếu tiếp tục công việc và lối sống hiện tại. Anh quyết định theo đuổi công việc giảng dạy và về sau nhận ra đó là bước đi đúng hướng và đúng lúc trong đời mình.
10. Viết hoặc ghi âm lại hồi ký, tự truyện hoặc câu chuyện gia đình. Tự truyện không chỉ dành cho những người nổi tiếng. Gia phả, lịch sử gia tộc hoặc hồi ký là một món quà có giá trị đối với gia đình hoặc bạn bè. Nó cũng có thể đưa ta vào một cuộc hành trình mới để tìm hiểu và khám phá, giúp ta kết nối với những cội rễ lịch sử và tâm lý. Hãy thử “trò chuyện” về quá khứ của mình vào băng hoặc máy ghi âm kỹ thuật số – cách này có lợi thế giữ được giọng nói lẫn ngôn từ của bạn. Nếu việc ghi lại âm thanh ra giấy vượt quá sức lực và thời gian của bạn, hãy nhờ trợ giúp. Bạn có thể sẽ ngạc nhiên khi bạn bè hoặc người thân sốt sắng muốn giúp bạn lưu giữ hồi ức.
Gia phả có thể là một hoạt động giao lưu đầy bất ngờ. Internet đang sôi động với bao người tìm kiếm được những mối quan hệ gia đình thất lạc lâu năm (hoặc chưa bao giờ biết đến). Nguồn dữ liệu hiện có để giúp bạn truy tìm tổ tiên thật đồ sộ – dữ liệu điều tra dân số, nhật ký hải hành, giấy khai sinh hay chứng tử và nhiều thứ khác nữa đang chờ một cú nhấp chuột. Thật lý thú nếu kết nối được với những người “anh em họ” mà ta chưa biết mặt hoặc biết được nhiều hơn về di sản gia tộc của mình.
Danh sách 10 hoạt động này thực ra chỉ là sự khởi đầu. Nó nêu ra một số gợi ý cụ thể mà tôi thấy rất hữu hiệu trong việc kích thích trí não, sự sáng tạo và việc giao tiếp xã hội. Nhưng danh sách tiềm năng này là vô tận. Điều quan trọng là hãy khởi sự. Như Aristotle nói, “Khởi đầu là một nửa của tất cả”.
Đúc kết hưu niên
Lằn ranh rạch ròi giữa “nghề nghiệp” và “hưu niên” ngày càng trở nên mờ nhạt với các hình thức nghỉ hưu theo từng giai đoạn và tiếp tục làm việc bán thời gian hoặc thời vụ. Và lối sống của những người không làm việc toàn thời gian đang phong phú hơn, năng động hơn và sâu rộng hơn so với thời trước. Ngày càng có nhiều người nhận ra rằng giai đoạn đời này, không những chẳng “xế bóng”, mà còn đầy tiềm năng cải thiện cuộc sống, tăng cường kỹ năng và thực hiện những ước mơ và kỳ vọng.
Thật đáng tiếc, nhiều người vẫn chưa chuẩn bị, về tài chính và tâm lý, để chuyển sang “nghỉ hưu”. Hầu như tất cả những người tham gia nghiên cứu của tôi đều nói họ sẽ tham gia chương trình giúp chuẩn bị cho người nghỉ hưu nếu được mời, nhưng đây vẫn là một nhu cầu lớn chưa được đáp ứng. Chúng ta cần nhiều hơn nữa những chương trình như hội thảo hoạch định hưu niên của Trung tâm Hưu niên Sáng tạo Bắc Carolina, đứng đầu là Ronald Manheimer. Hầu hết các cộng đồng đều thiếu cơ sở hạ tầng xã hội để giúp người sắp về hưu hoạch định và điều chỉnh quá trình nghỉ hưu toàn phần hoặc bán phần. Ít có các chương trình điều phối tình nguyện viên hoặc tuyển dụng người lớn tuổi. Mặc dù cơ hội làm tình nguyện viên vẫn có nhiều, vẫn chưa có các hướng dẫn hoặc tổ chức nào giúp kết nối những người có kỹ năng quý báu và muốn đóng góp. Kết quả là có một sự lãng phí lớn lao nguồn tài nguyên hùng mạnh của quốc gia ở người lớn tuổi.
Nếu bạn hoặc người thân hiện đã về hưu hoặc đang tính chuyện nghỉ hưu, hãy nhớ những điểm quan trọng này:
• Hãy tìm các hoạt động đòi hỏi sự tương tác tái diễn theo thời gian. Một số người rất bận rộn khi về hưu nhưng vẫn cảm thấy cô đơn vì họ lấp đầy thời gian bằng các hoạt động nhất thời hoặc không tương tác, nên không có cơ hội để gặp gỡ bạn bè mới.
• Theo thời gian, hãy thử đề ra một danh mục quan hệ xã hội cân bằng giữa các hoạt động cần nhiều và ít năng lượng, cũng như cần sự đơn độc và đông người.
• Tìm cách để thách đố trí não và cơ thể.
• Làm mọi cách để duy trì sức khỏe. Giữ cơ thể khỏe mạnh là cách hữu hiệu để có thái độ lành mạnh!
Tôi muốn mượn câu nói của tiểu thuyết gia Ellen Glasgow từng đoạt giải Pulitzer để đúc kết các luận điểm của chương này.
Trong vài năm qua, tôi đã có một khám phá ly kỳ... rằng đến khi người ta hơn 60 tuổi, người ta mới thật sự nắm được bí quyết sống. Khi ấy người ta mới bắt đầu sống, không chỉ bằng phần con người quyết liệt nhất của mình, mà bằng toàn bộ chính bản thân mình.
[1] Bungee jumping là một trò chơi cảm giác mạnh mà người chơi nhảy xuống từ một khối kiến trúc cao nào đó trong tư thế hai chân bị cột sợi dây. Đó có thể là từ cây cầu, cần cẩu hay tòa nhà cao tầng. Người chơi sẽ rơi tự do trong khoảng vài giây với tốc độ chóng mặt và sau đó được kéo ngược trở lên bởi sự đàn hồi của sợi dây - BT.